Chân dung linh mục Việt NamĐức Ông Phaolô Tịnh Nguyễn Quang Thiều Giáo phận Phát Diệm là nơi đã đào tạo ra nhiều thế hệ linh mục đạo hạnh. Nhân năm thánh các linh mục, tôi muốn ghi lại đôi dòng về một linh mục Phát Diệm, một người đã trải qua những năm tháng đầy biến động của đất nước trong suốt thế kỉ 20, đó là Đức Ông Phaolô Tịnh Nguyễn Quang Thiều.Tôi không có hân hạnh sống gần Đức ông nhiều. Những kỉ niệm giữa tôi và Đức ông chỉ là những cuộc gặp gỡ và chuyện trò ngắn ngủi, nặng tính xã giao. Tình cờ, sau khi Đức ông qua đời vào ngày 12-8-2000, tôi đọc được bốn tập hồi kí viết tay của Đức ông. Với lối văn giản dị, ngắn gọn, những tập hồi kí đã giúp tôi khám phá thêm nhiều nét đặc biệt nơi con người và cuộc đời Đức ông. Những dốc quyết đơn giản đầu đời linh mục Sau khi chịu chức ào ngày 31-10-1947, linh mục trẻ Phaolô Tịnh Nguyễn Quang Thiều đã soạn một bản qui tắc đời sống linh mục cho bản thân mình. Bản qui tắc ấy có thể tóm tắt bằng những nét chính yếu như sau: tĩnh tâm hằng tháng; xưng tội và gặp cha linh hướng hằng tuần; nguyện ngắm, dâng thánh lễ, xét mình, viếng Thánh Thể, đọc kinh phụng vụ trước Thánh Thể hằng ngày. Đó là một bản qui tắc sống đời linh mục thật đơn giản, nhưng qui tắc ấy cho thấy ý thức sâu xa của vị linh mục trẻ về mối tương quan giữa đời linh mục với Chúa Giêsu, giữa đời linh mục với phép Thánh Thể, giữa đời linh mục với kinh nguyện hằng ngày. Ở tuổi 30, vị linh mục trẻ đã hiểu rằng yếu tố căn bản, đòi hỏi tiên quyết, cốt lõi của đời sống linh mục là mối tương quan mật thiết với Chúa, là SỰ THÁNH THIỆN. Vào những thời điểm hiểm nguy nhất trong cuộc đời, cha đã luôn tận lực sống những điều cha đã tự đề ra cho mình. Ở phần cuối tập một và phần đầu tập hai, cha kể lại những thử thách thời gian cha mới bị bắt. Ngày 11-3-1952, cha bị gọi lên ti công an Ninh Bình, rồi liên tục bị chuyển từ nơi này qua nơi khác. Vài ngày sau khi bị bắt, cha bị chuyển chỗ ở vào ban đêm, cán bộ không cho mang theo vali đồ lễ. Thời đó luật giữ chay Thánh Thể buộc linh mục phải nhịn ăn nhịn uống từ nửa đêm hôm trước cho tới khi dâng lễ, sáng hôm sau, cha nhất quyết không ăn uống gì cho tới khi nhận lại được vali đồ lễ để cử hành thánh lễ. Hôm đó cha đã nhịn ăn nhịn uống tới mãi 17 giờ, khi cán bộ đưa đồ lễ tới. Lần khác, ngày 15-4-1956, sau ba ngày bị đấu tố và nhịn đói, cha bị triệu về Kim Sơn. Cha đi bộ từ 4 giờ chiều, tới khoảng 9 giờ tối mới tới nơi. Bị canh chừng trong một ngôi nhà nhỏ, sáng sớm hôm sau, cha đã tìm cách trốn vào Tòa Giám mục để dâng thánh lễ. Khi cha trở lại, những người canh gác vẫn còn say ngủ. Vào dịp này, khi bị tạm giữ ở Lưu Phương, nhiều lần cha đã bất chấp mọi nguy hiểm, trốn đi dâng lễ ở Tòa Giám mục lúc ba giờ sáng, sau đó lại lẻn về chỗ bị giam. Sống đời linh mục trong mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể phải chăng là bí quyết giúp cha can trường đối mặt với những thử thách cam go vượt sức chịu đựng thông thường của một con người? Đó phải chăng là chìa khóa giúp cha vượt lên trên tất cả hận thù oán ghét đằng đẵng nhiều năm đè nặng trên tấm thân hao gầy bệnh tật? Can trường trong bão tố Ngay sau khi chịu chức linh mục, giữa cảnh nhiễu nhương đầy bất trắc, cha Phaolô Nguyễn Quang Thiều được cử làm phó xứ Bình Sa, rồi phó xứ Tôn Đạo, sau đó làm phó xứ Phát Diệm. Đầu năm 1952, cha được Đức Cha Tađêô Lê Hữu Từ cử đi giúp “vùng tự do”, tức là vùng do Việt Minh kiểm soát. Ngày 3-3-1952, cùng với cha Nhân, cha Nguyễn Quang Thiều dắt xe đạp từ Phát Diệm, qua Lưu Phương, Bình Hải, len lỏi qua các xóm làng thuộc huyện Yên Mô, và tối ngày 4-3 tới xứ Hoàng Mai. Ngày 10-3-1953, cha bắt đầu bị triệu tới huyện Gia Khánh. Chiều ngày 11-3, cha bị đưa lên ti công an, rồi những ngày bị hỏi cung, bị giải qua các vùng rừng núi, sống tù túng trong hang hàng tháng trời. Sau đó, cha bị chuyển qua các trại giam Hang Vàng – Quảng Hiểu, rồi ngày 12-5-1952, cha bị giải đi xuyên rừng vượt núi tới trại cải tạo 5 Đ liên khu III, thuộc Cẩm Hoàng, Thanh Hóa, với thân phận của một tù nhân tại vùng do Việt Minh kiểm soát, bị cấm mọi hình thức thực hành tôn giáo, bị xiềng chân liên tục tới ngày 4-8-1952. Từ tháng 9-1952 tới tháng 5-1953, cha bị giam ở trại 5 B, Mĩ Hóa, bị xiềng xích nhiều lần. Cũng tại trại 5 B, cha đã can đảm làm chứng cho Chúa để rồi phải chịu những đòn hành hạ dã man. Gần dịp lễ Giáng Sinh năm 1952, cha được tháo xiềng và theo lời giám thị trại giam, cha sẽ được phép cử hành lễ Giáng Sinh. Cha đã rất vui mừng và dọn mình kĩ lưỡng, dọn bài giảng cho thánh lễ trong trại cải tạo. Nhưng đến sáng ngày 25-12, ban giám thị trại cho biết không mượn được đồ lễ (!), do vậy, chỉ cho phép mít tinh và cho phép cha diễn thuyết. Cha đã nhân dịp này trình bày giáo lí của Chúa cho bạn tù và cả ban giám thị trại. Ngày hôm sau, 26-12, cha bị đưa ra đánh đập, vu khống và đấu tố tập thể. Liền sau đó, cha bị “khóa miệng”, như lời cha viết trong cuốn hồi kí: “Hôm sau, sáng sớm đã ra lò rèn nhận chiếc xiềng 2 kg, và khóa miệng – tức là lấy một miếng kẽm to bằng bàn tay đeo kín miệng mũi, viết sơn đỏ: ‘Miệng nói láo’. Khóa miệng cho tới tháng 2-1953.” Từ tháng 3-1953 tới tháng 5-1953, cha lại bị vu vạ cho tội làm đầu sỏ âm mưu tổ chức phá trại, bị bỏ cho đói khát, vu khống, chịu gông cùm xiềng xích, bị đem ra đấu tố ròng rã nhiều ngày, bị đánh cho tới mức ngất xỉu, chỉ vì cha cương quyết không nói dối, không chấp nhận những lời vu khống. Sau đó, cha còn tiếp tục bị đấu tố tra khảo, bị đánh tới mức khắp thân thể thâm tím, mặt mũi sưng húp, có lần đã bị đưa ra nhà xác. Từ tháng 5-1953, giữa lúc thân thể đớn đau kiệt quệ, cha bị chuyển tới trại 5 A, Kim Tân, phải đi bộ, chân tay vẫn bị xiềng xích. Suốt bốn tháng trời, cha bị biệt giam trong xà lim kín. Sau đó, cha lại bị chuyển qua trại 5 Đ, Cẩm Hoàng, cho tới tháng 2-1954, rồi tiếp tục bị chuyển qua nhiều trại khác. Trong thời gian tù đày, cha đã tận mắt chứng kiến một số linh mục thuộc giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu bị chết rũ tù. Cuối tháng 12-1954, cha được đưa về xứ Hoàng Mai. Thoát cảnh tù đày xiềng xích, cha lại chuẩn bị một chặng đường mới cũng không kém phần khó khăn. Không khuất phục trước cường quyền Từ đầu năm 1955, cha được cha chính địa phận thay quyền Đức Cha Tađêô Lê Hữu Từ đặt làm chính xứ Hoàng Mai, kiêm Thiện Dưỡng và Ninh Bình. Tháng 11-1955, cha được chuyển về coi xứ Yên Thổ, kiêm nhiệm Bình Sơn, Quảng Phúc và Bình Hải. Thời gian này, cha đã chịu nhiều sóng gió của “cuộc cách mạng long trời lở đất”. Đầu năm 1956, cha bị đem ra đấu tố công khai, với đủ thứ tội: lập tề, làm bảo an, bắt cán bộ, nói xấu chế độ dân chủ cộng hòa, khinh chính quyền, dụ dỗ đồng bào đi Nam theo Mĩ Diệm, thu tô, mị dân, dâm ô, đầu độc bằng Bánh Thánh, bỏ thuốc độc vào giếng nước của bộ đội và nhân dân, lấy tin ngầm ở tòa giải tội, xui trẻ em phá các cuộc họp v.v... Sau đó, cha lại bị vu thêm tội “chống phá cải cách ruộng đất”, bị giam cầm hạch hỏi. Ngày 5-5-1956, cha lại bị đem ra đấu tố tại Yên Thổ, lần này cha đã thẳng thắn vạch ra những điều dối trá gian xảo trong các cuộc đấu tố từ ngày 9-4-1956. Sau đó, ngày 9-5-1956, đội cải cách lại tổ chức một “cuộc họp” tại Yên Thổ, một lần nữa cha lại lên tiếng phản đối thói hỗn xược, phách lối của đội cải cách. Nhân dịp lễ Chúa Lên Trời, ngày 10-5-1956, cha làm một cuộc phỏng vấn công khai rồi gửi văn bản tới giới hữu trách nhằm chỉ rõ thói gian xảo của những trò đấu tố. Sau đó, cha nhiều lần cương trực yêu cầu giới cầm quyền hành xử theo pháp luật. Từ khi có lệnh sửa sai, cuộc sống của các cha cũng như bà con giáo dân được dễ dàng hơn đôi chút. Ông đội nói với cha lúc chào từ giã: “Địa phương muốn có thành tích, nhiều khi cũng làm không đúng, nhưng đảng và chính phủ thấy có sai thì sẽ sửa.” Đầu năm 1957, cha Phaolô Bùi Chu Tạo được sắc phong làm Giám quản tông tòa Phát Diệm. Cha Giám quản đã đặt cha Phaolô Nguyễn Quang Thiều làm thư kí. Cha cùng Đức Giám quản đi kinh lí một số giáo xứ trong giáo phận Phát Diệm. Dịp này, Đức Giám quản đã nhờ cha nói về Ủy ban liên lạc toàn quốc những người Công giáo Việt Nam yêu tổ quốc yêu hòa bình. Sau đó, giới cầm quyền cấm không cho cha cùng đi với Đức Giám quản nữa.
Sau lễ tấn phong Giám mục cách đột ngột cho cha Phaolô Bùi Chu
Tạo tại Hà Nội, ngày 26-4-1959, tình hình trở nên căng thẳng.
Đức Khâm Sứ Dooley bị trục xuất. Ngày 15-8 năm đó, khi cha đi
dâng lễ ở miền Yên Mô thì nhận được công văn số 158 của
ti công an Ninh Bình với đại ý chỉ được làm lễ ở ba xứ Yên
Thổ, Quảng Phúc, Bình Hải, và cấm về Nhà Chung Phát Diệm. Tuy
nhiên, ngày 21-8 cha vẫn về Nhà Chung, và ngày 22-8 cha vẫn dâng
lễ tại Nhà Thờ Chính Tòa. Cũng từ đây, cha bắt đầu sống
chuỗi ngày bị hành hạ, đọa đày. Tháng 11-1959, tuần tĩnh tâm
năm các linh mục trong giáo phận, cha bị cấm tham dự với lí do
“còn nhiều khuyết điểm”. Tuy nhiên, cha gửi thư thông báo
cho ti công an và ngày 12-11, cha vẫn đi dự tĩnh tâm. Công an
biết không dọa nạt được cha nên đã tìm cách khủng bố tinh
thần cha Giuse Hoàng Duy Kim, chủ hộ Tòa Giám mục. Vì ích chung,
cha đã phải miễn cưỡng trở lại giáo xứ để tĩnh tâm riêng,
sau đó cha viết một thư cho ti công an, phản bác những việc làm
hách dịch, phi lí của công an; tố cáo thói gian xảo, cấp trên
đổ cho tại “cấp dưới làm sai vì anh em chưa nắm vững”;
cha cũng chỉ ra những thủ đoạn “lợi dụng lòng yêu nước chân
chính của người Công giáo mà làm việc phản Giáo hội, phản
đạo Chúa, cái Ủy ban liên lạc Công giáo nguy hại cho khối đoàn
kết thống nhất của đạo Công giáo …”; cha cũng tuyên bố
thẳng thắn “việc xưng tội, ít là ba tháng một lần, tôi
nhất định xin bằng được, nếu không cho phép thì tôi vẫn đi.”
Cứ như thế, nhiều lần cha viết thư thông báo, sau đó cha đi
khỏi nơi tạm giam, bất chấp mọi lệnh cấm, mọi lời vu
khống, đe dọa cũng như hành khổ. Có lần, khi gửi thư ra
huyện Yên Mô, cha đã viết thêm: “Chúc cơ quan đoàn thể trong
huyện được tiến bộ trong sự thật thà!” Khiếu lại ở tỉnh và trung ương bằng đơn từ nhiều lần mà
không có hồi âm, hoặc có hồi âm với nội dung chung chung:
“giao cho công tố xét”, ngày 3-6-1963, cha đi Hà Nội, để lại
một thư cho ti công an để báo việc cha đi trung ương. Cha tới
Nhà Chung Hà Nội và 11 giờ đêm hôm ấy bị công an tới bắt
cha ra đồn, rồi đưa tới giam tại Hỏa Lò, sau đó lại bị
giải về Ninh Bình, bị giam trong xà lim tại trại giam Phúc
Chỉnh. Ngày 7-6-1963, cha bị đưa tới Viện kiểm sát và nhận
lệnh tạm giam hai tháng vì tội “trốn đi Hà Nội”. Sau đó,
ngày 18-6-1963, cán bộ vận động giáo dân xin cho cha về xã Yên
Phong. Trở về, cha càng bị canh giữ nghiêm ngặt hơn. Cha kể
lại sự việc như chuyện hài hước sau đây: “Tôi giữ đúng
lệnh quản chế báo cáo lịch trình nửa tháng đi làm lễ, hoặc
xin phép năm lần bảy lượt để đi xưng tội. Chính quyền xã và
huyện nhất định không cho. Trụ sở thì chuyển lung tung, giờ hành
chính cũng chẳng ấn định, có ý làm cho tôi không tìm được mà
đặt đơn.” Giáo dân cũng bị ngăn cản không cho đến với
cha, không cho tham dự lễ Chủ Nhật, không cho lãnh nhận các bí
tích.
Kim Ân |