Đức Cha Phạm Ngọc Chi: vị mục tử mà cả triệu người Việt ghiNgười ta thường viết về một nhân vật, khi người đó vừa nằm xuống, trong ngày kỷ niệm, hay nhân ngày bổn mạng… Con đã rất tha thiết muốn viết về ngài, nhưng nhìn thấy cuộc đời ngài vĩ đại quá, con đã bắt đầu nhiều lần rồi lại để nguyên đấy và chẳng biết viết thế nào. Đã hai mươi mốt năm đi qua từ ngày ngài đã từ giã thế gian này mà trong đó cuộc đời của ngài có ý nghĩa vô biên cho hàng triệu cuộc đời khác. Ngày 14 tháng 5 năm nay là ngày kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ngài.Cách đây ít lâu, khi Đức Hồng Y Etchegaray làm đặc sứ Toà Thánh sang Việt nam, một số người trong đó có con được hân hạnh tiếp xúc với Đức Hồng Y nhờ có Cha Matthêu Vũ Khởi Phụng làm người hướng dẫn. Sau đó một thầy đại chủng sinh, bây giờ đã là linh mục, nói với con: “Mình chưa thấy vị giám mục Việt nam nào nhân từ, cởi mở và vui vẻ như vậy”. Con trả lời: “Đúng rồi, Đức Hồng Y thật tuyệt vời. Nhưng nói như ông cũng chưa đúng, có lẽ vì ông chưa sống với một vị giám mục Việt nam nào, nhất là ông chưa sống với Đức Cha Phêrô Maria”. Bây giờ thì con xin được viết đôi nét về ngài, Đức Cha già khả kính Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, người mục tử vĩ đại và nhân hậu nhất mà con từng được biết. Với sức khoẻ và sự chịu đựng của ngài, nếu không có những thử thách và áp lực nặng nề mà thế gian điêu ngoa này giáng xuống trên ngài, thì có thể Chúa để ngài còn sống đến hôm nay, để mừng bách niên đại thọ bên vô số con cháu giờ có mặt trên khắp địa cầu. Nói về Đức Cha Phêrô Maria, mỗi người sẽ nhìn ngài ở một khía cạnh mà khía cạnh nào cũng toả sáng lung linh. Với diện mạo vừa uy nghi vừa nhân hậu, Đức Cha là một bậc trí thức chuyên về triết học và thần học, một nhà lãnh đạo tài ba đưa bao nhiêu người vượt qua sóng gió với cả nghĩa đen và nghĩa bóng của từ “sóng gió” này, và cũng là một ngư phủ tuyệt vời đã đem nhiều “mẻ cá” lớn về cho Giáo Hội Chúa Kytô. Cậu bé Phêrô Phạm Ngọc Chi sinh ngày 14 tháng 5 năm 1909 tại Tôn Đạo, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, thuộc giáo phận Phát Diệm. Năm 11 tuổi, với diện mạo khôi ngô và trí khôn sắc sảo, cậu được gọi vào học tiểu chủng viện Ba Làng và năm sau chuyển về tiểu chủng viện Phúc Nhạc. Kết quả học vấn của tiểu chủng sinh vừa tốt nghiệp Phạm Ngọc Chi rất xuất sắc, và do đó Đức Cha Marcou đã chọn thầy du học tại trường Truyền Giáo Rôma. Thầy Phạm Ngọc Chi thụ phong linh mục khi còn rất trẻ, năm 1933 khi ngài mới 24 tuổi. Sau đó ngài tiếp tục học tại đại học Apollinaire với bằng tiến sĩ Triết học, cử nhân Thần học và Giáo luật, và chuyển sang học tại đại học Luật Khoa Paris. Khi về nước, ngài là giáo sư và sau này là Giám Đốc Đại Chủng Viện Phát Diệm. Ðầu năm 1946, ngài được Hội Ðồng Ðịa Phận ủy ra tranh cử Quốc Hội, nhưng vì sự man trá của Chính Phủ Việt Minh hồi đó, nên ngài đã từ khước sự trúng cử. Năm 1950, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục Bùi Chu và lễ tấn phong Giám Mục của ngài được tổ chức long trọng ngày 4-8-1950. (1) Lúc ấy ngài mới 41 tuổi, là một trong bảy vị Giám Mục Việt nam đầu tiên của Giáo Hội Việt nam. Khẩu hiệu Giám Mục của ngài là “In Verbo Tuo, laxabo rete”, “Vâng lời Thầy, con thả lưới”, là lời tuyên xưng mạnh mẽ của vị Tông đồ cả, bổn mạng của ngài.
Cha Phêrô Hoàng Xuân Nghiêm viết: “Từ ngày về cai quản Giáo Phận Đà Nẵng, ngài đã xây dựng nhiều cơ sở mới cho Địa Phận: Tòa Giám Mục, Nhà Hưu Dưỡng cho các Linh Mục già yếu, Tiểu Chủng Viện Thánh Gioan, Bệnh Viện An Bình tại An Thượng, Đại Chủng Viện Hòa Bình là Chủng Viện miền tại Hòa Khánh, Trung tâm Công Giáo Tiến Hành cạnh nhà thờ Chánh Tòa Đà Nẵng. Trước năm 1963, tại Đà Nẵng chỉ có dòng nữ Thánh Phaolô và chị em Mến Thánh Giá Phú Thượng, nhưng sau năm 1963 trở đi, ngài đã cho phép hoặc mời thêm nhiều Hội Dòng khác nhau đến hoạt động truyền giáo trong Địa Phận như Dòng Mến Thánh Giá Huế, Dòng Kim Đôi Huế, Tu Hội Tận Hiến Saigon, Tu Hội Nhà Chúa Saigon và Dòng Thánh Gioan Thiên Chúa Biên Hòa ra Đà Nẵng trông coi bệnh viện An Bình. Con số linh mục địa phận chưa đầy 40 vị lúc Giáo Phận mới thành lập đã tăng lên 117 vị năm 1975. Sau năm 1975, vì lý do
mục vụ và thời cuộc, nên trong Địa Phận còn khoảng 50 vị
nữa thôi. Đức cố Giám Mục đã gởi rất nhiều linh mục đi du
học nước ngoài. Ngài vẫn chủ trương mỗi phân ngành chuyên
biệt như Giáo Luật, Luân Lý, Xã Hội, Thần Học, vân vân... ít
nhất phải có 3 cha trong Địa Phận có cùng một loại bằng cấp
để giúp nhau làm việc, vừa có người kế tục công việc của
một cha đang làm nếu chẳng may vị này qua đời đột ngột. Chúng
tôi còn nhớ trong một dịp cấm phòng năm cho toàn thể linh mục
địa phận, ngài đã khuyến khích các cha dưới 40 tuổi nên cố
gắng xuất ngoại. Ngài nói: Nếu cha nào không có khả năng lấy
thêm bằng cấp Đạo, Đời, thì ít ra có dịp quan sát tận mắt
những tiến bộ của các nước Âu Mỹ để có thêm kiến thức mà
về phục vụ tốt cho anh chị em Chúa và đồng bào trong nước.
Chủ trương này của ngài đang tiến hành tốt đẹp thì Miền Nam
rơi vào tay Cộng Sản và chương trình này đành đình hoãn vô
hạn định. Hiện nay có khoảng 15 linh mục Đà Nẵng đang hoạt động
ở nước ngoài, mà phần lớn đang phục vụ anh chị em Chúa tại
Hoa Kỳ.” (3). Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi là người cha can đảm và nhân hậu của đoàn chiên Chúa. Biến cố 1954 rồi 1975 đã đưa ngài vào những bước ngoặc vĩ đại của cuộc đời, và lúc nào ngài cũng nhiệt thành, can đảm và hết lòng vì đoàn chiên. Những người di cư năm 1954 từ miền Bắc và nhiều người di cư suốt những năm sau đó từ các làng mạc nhiều biến động ở miền Trung đi đến các xứ đạo sầm uất và sốt sắng là những người con được che chở bởi lòng can đảm và tình thương yêu của Đức Cha. Rồi sau này khi một số những người con ấy lên đường viễn xứ, chắc chắn họ sẽ nhớ công ơn vô bờ của một người cha già đến cuối đời lặng lẽ và đau khổ nơi xứ đạo miền quê. Ở đây con không nói về nguyên nhân bệnh tật và cái chết của ngài vốn rất phức tạp, nhưng chắc chắn những đau khổ ngài chịu trong chương trình của Thiên Chúa, nói lên tất cả tâm hồn người mục tử vĩ đại, ân nhân của nhiều triệu người dân Việt muôn phương. Tất cả những ai có dịp tiếp xúc với Đức
Cha Phêrô Maria đều nhận ra ngài là người cởi mở, nhân hậu và
đầy cảm thông. Và ai có dịp sống với ngài đều cảm được tâm
hồn bao dung như biển cả của ngài. Con có hân hạnh làm người
giúp việc cho ngài trong một khoảng thời gian không phải là dài,
nhưng đó là thời gian đẹp của đời con. Khi nghĩ đến quãng đời
ấy, con luôn xúc động trước lòng nhân hậu của Đức Cha. Ngài
không nặng lời, không quở trách, chỉ có lòng yêu thương mà thôi.
Có một chuyện nhỏ nói lên được cả tấm lòng ngài. Hồi đó dù
là Giám Mục Chính Toà, mỗi lần ngài đi đâu cũng bảo con chở
bằng xe Honda dame cũ kỹ. Có một lần con đưa ngài sang nhà thờ
Chính Toà về, đi ngang cầu Trịnh Minh Thế gió thổi rất mạnh.
Con để một phong thư trong giỏ xe phía trước. Đang đi thì gió
thổi bay phong thư xuống cầu. Con dừng xe lại, bắt ngài chờ để
nhặt phong thư lên, và bỏ vào giỏ xe. Ngài nói: “Cẩn thận con
nhé”. Đi được một quãng nữa thì gió lại thổi bay phong thư,
và ngài lại phải xuống xe để chờ con. Khi con nhặt phong thư
xong, Đức Cha bảo: “Cha đã nói với con rồi”. Nhưng nếu
chuyện chỉ có thế mà thôi thì cũng chẳng có gì, nhưng sau bữa
cơm tối hôm ấy, ngài gọi con lại, đi dạo với ngài và ngài
bảo: “Vinh ơi, chiều nay Cha trách con, con có giận không? Sau này
chắc là cứ nhớ lời Cha trách?” Con cảm động muốn khóc. Và bây
giờ mỗi lần nhớ lại chuyện hồi ấy, Cha ơi, con chỉ nhớ
rằng Cha quá đỗi nhân từ. Lòng nhân từ của Đức Cha thể
hiện rõ nét qua Di Chúc của ngài. Ngài không quên một ai, và yêu
thương tất cả, dù là kẻ làm khổ ngài. “Ðối với những người
thù ghét tôi, làm khổ tôi, nếu có, tôi không có buồn giận ai
cả. Trái lại, tôi xin Chúa chúc lành cho họ. Họ làm như thế là
làm cho tôi, vì tôi có dịp lập công, đền tội, nhất là trong
những ngày sau hết đời tôi.” (5)
Gioan Lê Quang Vinh |