Đức Hồng Y tiên khởi của Việt Nam:
G.M Giuse Maria Trịnh Như Khuê
1-Trưởng thành từ đất “ Hàm Rồng”
Đức Hồng y Giuse Maria Trịnh Như Khuê sinh ngày 11/12/1899 và được
truyền chức linh mục ngày 1-4-1933. Ngài trở thành linh giám đầu
tiên của Legio Mariae tại Việt Nam. Khi Đức cha F. Chaize (tức
Thịnh)- Giám mục đại diện Tông toà Hà Nội đột ngột qua đời
ngày 22-2-1949, Toà thánh đã bổ nhiệm Ngài khi đó đang là linh
mục chính xứ Hàm Long thay thế. Xứ Hàm Long ( Hàm Rồng) đúng là
nơi “phát” các chức sắc cao cấp của giáo hội Việt Nam. Cho
đến nay, xứ này đã cung cấp cho giáo hội 3 Hồng y (GM. Trịnh
Như Khuê; GM. Trịnh Văn Căn; PG. Phạm Đình Tụng) và 2 Giám mục (GM. Nguyễn Tùng Cương và FX. Nguyễn Văn Sang). Ngày lễ Đức Mẹ lên
trời 15-8-1950, Ngài được tấn phong giám mục do Đức cha Lê Hữu
Từ chủ phong và hai Đức cha Phạm Ngọc Chi, Gomez là phụ phong.
Khẩu hiệu Giám mục của Ngài là: “Hãy theo Thày”.
2-Vị Giám mục “nô lệ” của Đức Mẹ
Một tháng sau ngày thụ phong, Ngài lên đường qua Roma để cảm
tạ Toà thánh và cũng là dự lễ tuyên tín Đức Mẹ linh hồn và
xác lên trời 1/11/1950. Ngài tranh thủ đến những thánh địa nổi
tiếng về Đức Mẹ là Lộ Đức, Fatima để cầu nguyện với Đức
Mẹ cũng như ghé thăm Dublin ở Irlande- nơi sáng lập phong trào đạo
đức Legio Mariae để học tập, áp dụng ở Việt Nam. Có thể nói
rằng, Ngài chính là vị Giám mục yêu mến Đức Mẹ.
Ngài coi sóc
giáo phận trong một thời điểm đầy xáo trộn, sóng gió do
chiến tranh, biến động chính trị. Ngay Thư chung số 1 ban hành ngày
22/7/1950, Ngài viết: “Chúng ta đang sống trong một thời kỳ đau
thương, những mong bình an mà chẳng thấy bình an, đau khổ đủ
thứ, đau khổ cả hồn, đau khổ cả xác. Trông cậy vào ai? Nương
tựa vào ai? Thiết tưởng đang đêm tối tăm, sự soi sáng cho nhân
– vật đỡ tối chỉ là mặt trăng êm ái dịu dàng. Tôi muốn nói
với anh chị em về Đức Mẹ…Muốn cho địa phận ta cũng được
chung phần phúc ấy, tôi đãquyết định sau dịp tôi thụ phong,
sẽ dâng địa phận cho trái tim vô nhiễm nguyên tội Đức Mẹ”.
Nếu ai đã sống trong giai đoạn đó thì sẽ hiểu lá thư trên
phải viết ra bởi một con người đầy dũng khí bởi có thể bị
suy diễn, quy chụp là “ nói xấu chế độ”. Ngài để lại ít
bút tích và ngay cả những bút tích ít ỏi đó cũng rất kiệm
lời. Một cuốn sổ tay ghi chép của Ngài mà nhà nghiên cứu Hồng
Nhuệ- Nguyễn Khắc Xuyên gọi là “Nhật ký vô đề” (1) chỉ là
những gạch đầu dòng “ nhắc việc” rất khô khan. Ví dụ: “3
Dec.54: hồi 18 giờ yết kiến Hồ Chủ tịch ở biệt điện”. Không
rõ nội dung cuộc gặp gỡ hôm 3-12-1954 đó nói gì? Có thể do hoàn
cảnh, Ngài không muốn nói nhiều, cũng có thể Ngài ghi chỉ để
cho mình nhớ nhưng người đọc có thể khám phá ra nhiều điều
thú vị theo phương cách “ ý tại ngôn ngoại”.
Trước hết, chúng
ta thấy trong hoàn cảnh khó khăn mà Ngài đi kinh lý khắp các xứ
họ của giáo phận Hà Nội rộng lớn kể cả các xứ Mường như
Mường Riệc, Mường Cắt, Lạc Thổ… Có chuyến đi, mấy xe đi trước
xe Ngài mấy bước bị vướng mìn. Có những chuyến đi không thành.
Chẳng hạn, “ngày 10-11-1956 định đi Mạc Thượng, không vào được;
Ngày 29-11-1956; không đi thăm Khoan Vỹ, Công Xá, Phú Đa như đãđịnh
trước”… Không biết sự cản trở đó là do chủ quan hay khách
quan? Nhưng nhật ký ngày 16-4-1957 ghi: “hồi 14 giờ trở về Hà
Nội, qua Phủ Lý; đến Ngô Tư Vọng bị khám giấy và bị tước
giấy”. Vậy là rõ, lý do khách quan. Từ đấy, nhật ký mục vụ
chấm dứt. Ngài không được đi đâu được nữa mà chỉ loanh
quanh Toà Giám mục. Tôi được nghe Đức cha Nguyễn Văn Sang nói
rằng cả hai vị Hồng y họ Trịnh đều lấy sân thượng Toà Giám
mục là nơi đi dạo để rèn luyện thân thể và suy tư đến nỗi
có hẳn một vòng bầu dục vết chân trên sân thượng và gọi đó
là vòng chân Đức Hồng y.
Khó khăn là vậy nhưng lòng yêu mến Đức Mẹ nơi Ngài thì không
giảm. Nhật ký của Ngài ghi rất nhiều mục vụ liên quan đến Đức
Mẹ: “ 21 Aviril.51 Nam Định, giảng về Đức Mẹ Hằng Cứu giúp;
8 Dec. 52, Kẻ Sở, giảng lễ Đức Mẹ; 18 Jan.53: làm phép tượng
Đức Mẹ Fatima; 24-1-53: Ngọc Thị: làng Đức Mẹ”…Không biết
vì sao Ngài lại gọi làng Ngọc Thị là làng Đức Mẹ? Chắc nơi
đây, giáo dân sùng mến Đức Mẹ lắm!
Đặc biệt, Ngài là tác
giả của ý tưởng chọn Đức Mẹ là quan thày cho thành phố Hà
Nội. Ngày 24-1-1959 Ngài ra thông cáo nhận tượng Đức Mẹ ở
Quảng trường Nhà thờ lớn là tượng Đức Mẹ Hà Nội và dâng
nhà thờ Cửa Bắc là nhà thờ Đức Mẹ Hà Nội. Ngài soạn kinh
Đức Mẹ Hà Nội, mời gọi các thành phần dân Chúa làm đơn xin
nhận Đức Mẹ là quan thày thành phố và chính Ngài ký đơn
thỉnh cầu Toà thánh xin nhận Đức Mẹ là quan thày thành phố Hà
Nội. Ngày 18-2-1959, Ngài khai mạc Năm thánh Đức Mẹ Hà Nội. Ngày
30-6-1959 mở tuần tam nhật mừng lễ Đức Mẹ Hà Nội. Ngày
18-4-1959 khi kiệu đến tượng đức Mẹ Hà Nội, đọc kinh Đức
Mẹ Hà Nội, Ngài trịnh trọng xin phép Đức Mẹ gọi thành phố Hà
Nội là thành phố Đức Mẹ. Vậy là đến năm 2009 này, thành
phố Đức Mẹ vừa tròn 50 tuổi.
Những ngày cải cách ruộng đất “như trời long, đất lở”,
con đấu cha, vợ đấu chồng để được chia thêm cái mâm đồng
thủng hay cái cối đá vỡ. Ngài ra Thư chung số 11 rất dài tới
14 trang nhan đề “ Thương yêu nhau”. Bao ẩn ý ở trong lá thư
mục vụ này. Thư chung viết: “Tội là sự độc dữ xấu xa,
phải thà chết chẳng thà phạm tội; phải hãm mình phạt xác để
đền tội và cho khỏi phải phạm tội; đừng sợ sự đau khổ,
sỉ nhục vì đau khổ sỉ nhục đời này là vinh hiển đời sau;
đường lối của Chúa khác đường lối thế gian”.
Những ngày làn
sóng di cư bùng nổ, Ngài ra lệnh phạt “ treo chén” những linh
mục bỏ đàn chiên. Vì vậy, Hà Nội dù địa điểm ra Hải Phòng
thuận lợi cũng chỉ có khoảng 6 vạn giáo dân (trên 20 vạn) và
100 linh mục ( trên tổng số 168) vào Nam, tỷ lệ thấp hơn nhiều
so với các giáo phận khác. Để giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn,
Ngài lập Ban cứu tế và Quỹ cứu tế địa phận vào tháng
9-1951. Ngài củng cố nhiều hội đoàn Công giáo như Hội Đức
Trinh nữ Mẹ Chúa Trời, Hội trợ cấp cho chủng viện, Hội Đức
Bà lên trời, Đạo binh Đức Bà Maria… Ngài chia giáo phận thành
29 giáo hạt từ tháng 7-1951 để các linh mục tiện coi sóc.
Ngài cũng
khôn khéo để phong chức cho Tổng Giám mục phó GM Trịnh Văn Căn
ngày 2-6-1963 theo phương thức “khẩn cấp” vì lý do “ mắt Đức
Tổng hầu như mù, chữ viết trên mặt đồng hồ không còn trông
thấy nữa”. Thông cáo của Toà Giám mục ngày 3-6-1963 viết như
vậy. Đây là cách làm “tiền trảm hậu tấu” mà nhiều giáo
phận khác cũng áp dụng kể cả truyền chức linh mục như Bùi Chu
truyền chức cho 29 linh mục ngày 8-12-1963.
Giáo hội Việt Nam ghi nhận nhiều lễ phong chức Giám mục “ lạ
kỳ”. Đức cha JS. Theurel (tức Chiêu) được phong giám mục ngày
6-3-1859 kể lại rằng: “Một ngày tôi đang ở trong một chuồng
trâu thì tôi được lệnh cấm phòng ngay rồi về gặp Đức Giám
mục. Tôi đến chỗ hẹn gặp tại một chòi lá ở Kẻ Trụ trong
hai đêm… Nghi thức tấn phong không có gì sang trọng. Tôi cầm
gậy bằng một khúc tre đốn trong rừng gần đấy. áo dán giấy
mạ vàng có đính dây kết bằng rơm rạ. Tôi không có tất cũng
không có bao tay. Nghi lễ tấn phong diễn ra không quá hai tiếng đồng
hồ trước khi mặt trời mọc”(2). Lễ tấn phong Giám mục cho
linh mục Đa minh Đinh Đức Trụ (Thái Bình) do Ngài chủ sự ngày
25-3-1960 cũng lạ kỳ không kém. Vị tiến chức giả làm ông đạp
xích lô từ Thái Bình lên Hà Nội gặp chủ phong trong buồng áo.
Nghi lễ diễn ra chỉ có hai người. Rồi vị Giám mục “ chui”
đó lại đạp xe sang Bùi Chu tấn phong “ chui” cho Giám mục J.
Phạm Năng Tĩnh trong một chiếc thuyền chài…
Đất nước thống nhất, tháng 5-1976, Ngài được vinh thăng lên
bậc Hồng y. Khi Đức Phaolô VI qua đời, Ngài qua Rôma dự tang lễ
và bầu Giáo hoàng mới. Chưa kịp về nước, Đức Gioan Phaolô I
lại tạ thế, Ngài tiếp tục ở lại đến khi Đức Gioan Phaolô 2
lên ngôi và trở về Hà Nội ngày 25-11-1978. Tối 26-11, Ngài vẫn dâng
lễ và chủ sự chầu Thánh thể rất sốt sắng ở Nhà thờ lớn
Hà Nội. Tối ngày 27-11, Ngài đột ngột qua đời. Câu nói cuối cùng
của Ngài trước khi tắt thở là: “ Chịu lễ”. Cái chết bất
ngờ của Ngài làm rộ lên những nghi vấn. Nhưng pháp y khẳng định
Ngài bị nhồi máu cơ tim. Lễ tang của Ngài được tổ chức vào
ngày 30-11 do Đức Tổng Giám mục Trịnh Văn Căn chủ sự. Hai vạn
giáo dân đã đến quảng trường Đức Mẹ Hà Nội tiễn đưa Ngài.
Nhân sắp đến ngày giỗ thứ 29 của Ngài, đọc lại những bút tích
của Ngài, tôi thấy trong Thư chung số 2 ngày 8-9-1950 viết: “Là nô
lệ của Đức Mẹ, tôi phải làm mọi việc dưới sự điều
khiển của Đức Mẹ”. Còn Thư chung số 3 ban hành ngày1-11-1950
lại có câu: “Yêu nước, thời nay người ta nói đến rất
nhiều, có khi Anh em không nói nhiều bằng người khác. Chúng ta hãy
làm nhiều hơn nói”. Xin Ngài cầu cho chúng con được làm “ nô
lệ” của Đức Mẹ như Ngài và biết làm nhiều hơn nói trong Năm
thánh này.
Hà Nội, tháng các linh hồn năm 2009
Chú thích:
1- Hồng Nhuệ- Nguyễn Khắc Xuyên: Lịch sử địa phận Hà Nội
1626-1954, Paris 1994.
2- Le pere Six, Blond Paris 1935
TS. Phạm Huy Thông
VietCatholic News
|