Giới thiệu về nhà thờ St. Cecilia mừng kỉ niệm 100 năm và
là giáo xứ cho người Việt Nam ở Toronto
Những mốc thời gian ghi dấu ân sủng của Thiên Chuá của thánh
đường St. Cecilia: Ngày 07 tháng 11 năm 2009 tại Nhà thờ St.
Cecilia, Đức Cha Thomas Collins,Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận
Toronto đã chủ tế Đại Lễ Tạ Ơn kỷ niệm 100 Năm xây dựng ngôi
Thánh đường này (1909-2009),
Khởi thủy thánh đường này là của
người Công Giáo Ái Nhĩ Lan và trong những năm gần đây triở thành
di sản đức tin chung cho cả người Ái nhĩ lan và người Việt Nam
tại Canada. Đây cũng là Nhà thờ Tông Tòa của Giám Mục Phụ Tá
Tổng Giáo Phận Central Toronto Region kiêm Đặc trách Các Sắc dân và
Di dân.
Đồng tế với Đức Tổng giám Mục có Đức Cha Pearse Lacey, nguyên
Giám Mục Phụ Tá TGP Toronto, Linh Mục Joseph Trần Tập Cha Sở Giáo
Xứ St.Cecilia kiêm Chánh Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Toronto, các
Linh Mục Phòng Bộ, Đức Ông Marco Laurencic và 10 Linh Mục gốc Ái
nhĩ Lanm Việt Nam và Canada đã từng phục vụ tại thánh đường
St. Cecilia.
Trong lời chào mừng khai mạc Thánh Lễ trọng đại này, sau lời
cảm tạ ân sủng Thiên Chúa ban cho hàng giáo phẩm và tín hữu đã
tham gia phụng vụ tại ngôi thánh đường này trong hơn 100 năm qua-Đức
Tổng Giám Mục đã giới thiệu vị giáo sĩ niên trưởng kỳ cựu
nhất đã từng phục vụ Giáo Xứ.
Đó chính là Đức Cha Pearse
Lacey, sinh ngày 26/11/1916 và còn đúng 20 ngày nữa sẽ là sinh nhật
thứ 94 của ngài. Đức Cha Pearse Lacey đã phục vụ tại Giáo Xứ
St.Cecilia từ năm 1948 đến 1953. Sau khi được tấn phong Giám Mục,
Đức Cha Pearse Lacey đã được bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá
Tổng Giáo Phận Toronto từ năm 1979-1993. Nghĩ về lịch sử 100 Năm
xây dựng ngôi Thánh Đường St.Cecilia, cuộc đời phục vụ của
Đức Cha Pearse Lacey là một bằng chứng về Lòng Thương xót và ân
sủng của Thiên Chúa ban cho ngài.
Sau tràng pháo tay chúc mừng vị giáo sĩ niên trưởng của Tổng Giáo
Phận Toronto, Đức Tổng Giám Mục Thomas Collins đã loan báo tin
mừng thứ hai, nhân ngày Đại Lễ Kỷ Niệm 100 Năm xây dựng Thánh
Đường St. Cecilia, Đức Giáo Hoàng Benedict thứ 16 đã gởi đến
cho Tổng Giáo Phận Toronto và St.Cecilia một vị Giám Mục trẻ
tuổi nhất của Tổng Giáo Phận: đó là Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn
Mạnh Hiếu.
Năm 2005 Đức Hồng Y Aloysius Ambrozic bổ nhiệm Linh Mục Joseph
Trần Tập, Cha Sở Giáo Xứ St. Gertrude, Oshawa về St.Cecilia-GXCTTĐVN
Toronto thay cho LM Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu được cử đi học tại
Giáo Hoàng Học Viện St. Thomas Aquinas (Angelicum, Rome).
Sau khi tốt
nghiệp văn bằng Cử nhân Giáo Luật trở về Canada năm 2008, tháng
Tám năm này LM Vincent Nguyễn được bổ nhiệm làm Phó Chưởng
Ần TGP. Tháng Chín năm 2009, LM Vincent Nguyễn được cử làm
Chuởng Ấn kiêm Trưởng Văn Phòng Giáo Phủ Tổng Giáo Phận
Toronto.
(Chú thích: phiá tay trái là Đức Cha Peter Hundt, đứng giữa là Đức
Cha John Boissoneau, bên tay phải là Đức Cha Richard Grecco (nay là Giám
Mục Chính Toà Giáo Phận Tỉnh Bang Prince Edward Islands, quần đảo
ở miền biển phiá Đông Canada )
Và hôm nay ngày 07 tháng 11 năm 2009, sau 25 năm kể từ ngày đặt chân
đến đất nước Canada-người thanh niên Vincent Nguyễn Mạnh
Hiếu- một thưở như bao người Việt Nam trên đường vượt
biển tìm tự do đã không ngừng nguyện xin cho con tàu và chính
bản thân được an toàn đến bến bờ tự do-đã không thể tưởng
tượng được hồng ân của Thiên Chúa bao la đến dường nào:
từ vị Cha Sở trẻ tuổi nhất của St.Cecilia, Linh Mục Vincent
Nguyễn đã trở thành vị Giám Mục Canada tiên khởi gốc thuyền
nhân Việt Nam có tuổi đời trẻ nhất trong hàng Giám Mục Canada.
Bài giảng lễ cho Các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam hành hương
tại Đền Kính Các Thánh Tử Đạo Canada và Việt Nam tại Midland.
Bài suy niệm đặc biệt về tương đồng lịch sử của công
cuộc truyền giáo tại hai Giáo Hội Canada-Việt Nam của Đức Cha
Richard J. Grecco, nguyên Giám Mục Phụ Tá TGP Toronto nay là Giám Mục
Chính Tòa Giáo Phận Prince Edward Islands, Canada. Bản dịch của Linh
Mục Vinh Sơn Nguyễn Mạnh Hiếu nay là Giám Mục Phụ Tá TGP
Toronto. Phần chú thích và những chữ in nghiêng nhấn mạnh là do
Dominic David Trần thực hiện)
"Thưa qúy Cha và qúy vị tham gia ngày Hành hương Thánh Mẫu và
Các Thánh Tử Đạo hôm nay;
Tôi thật xúc động khi đọc lịch sử giáo hội Việt Nam, và
nhận ra lòng trung thành, can đảm và vâng phục của Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam. Trong khi đọc những dòng lịch sử ấy, tôi chợt
nhận thấy thật là thích hợp để tụ họp nơi đây, tại Đền
Các Thánh Tử Đạo Canada này (*). Năm 1615 các linh mục Dòng Tên
thiết lập cơ sở truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam. Tới năm
1627 (*), một linh mục Dòng Tên, A Lịch Sơn Đắc Lộ, đã rửa
tội cho gần 8,000 người, trong đó có cả một người em gái của
Vua. Cha Đắc Lộ, vị "Tông đồ của Việt Nam", đã bị
trục xuất năm 1645. Cũng chính trong thập niên này cơ sở truyền
giáo Ville Ste. Marie được thành lập ngay tại nơi đây bởi Các Thánh
Tử Đạo Canada. Ngoài sự trùng hợp về các Cha Dòng Tên, về
thời gian, còn có một lý do linh thiêng để mừng lễ Các Thánh
Tử Đạo Việt Nam tại Đền Thánh này.
Lý do đó chính là: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã nghe lời Chúa
Giêsu bảo Thánh Phêrô Tông Đồ: " Hãy chèo ra chỗ nước sâu."
Duc in altum! Thánh Phêrô và các Tông Đồ đã vâng lời Chúa Giêsu.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam cũng đã làm như vậy. Chúa Giêsu
bảo các môn đệ là hãy kiên nhẫn chèo ra chỗ nước sâu. Sau
một đêm chài lưới vất vả mà chẳng được gì, các Tông Đồ
đã mệt mỏi và chán nản. Dĩ nhiên chài lưới trong chỗ nước
cạn sẽ an toàn hơn, nhưng Chúa Giêsu nói rõ ràng " chỗ nước
sâu".
Việc vâng lời Chúa đòi hỏi MẠO HIỂM. Chúa bảo: hãy
bạo dạn, liều lĩnh, lắng nghe và vâng theo lời Người truyền
dạy. Các ông đã làm như thế, và lưới của các ông đã đầy
những cá. Thánh Phêrô đã hãi sợ xin Chúa tránh xa mình vì là người
tội lỗi. Nói một cách khác, sự BẠO DẠN đem lại sự thành công
mà Phêrô không hiểu nổi. Thế giới cũng không hiểu thấu. Và Chúa
Giêsu trấn an Phêrô, "Đừng sợ". Đừng sợ chèo ra chỗ
nước sâu. Đừng sợ phải vâng lời của Thầy. Đừng sợ vì thân
phận tội lỗi của mình. Đừng lo lắng về kết cuộc sẽ ra
thế nào.
Gần 1600 năm sau, trên Bắc Mỹ, Brebeuf, Isaac Jogues và các bạn đã
nghe lệnh truyền này của Chúa Giêsu trong một hình thức khác.
Chỗ nước sâu là Huronia. Vâng, lệnh truyền này thật là một
mạo hiểm, và sợ hãi là điều rất thường tình của con người.
Nhưng lời của Chúa nung nấu bầu nhiệt huyết của họ, và họ
đã mạo hiểm "chèo ra chỗ nước sâu."
Tương tự như thế, bên kia qủa địa cầu, hằng trăm ngàn người
Việt Nam cũng đã nghe lệnh Chúa Giêsu. Chỗ nước sâu là những
cuộc bách hại đạo và khổ hình mà họ đã trải qua trong những
thế kỷ thứ 17, 18 và 19. Giáo Hội Công Giáo Việt Nam được ban
cho món qùa can đảm để đối diện với sự khủng hoảng của
cực hình và cái chết. Đức tin đốt lên lòng sốt sắng. Lòng
sốt sắng thúc đẩy họ dâng hiến sự sống mình hoàn toàn cho
Thiên Chúa. Ai không xúc động bởi gương can đảm, lòng tín trung
với Đức Kitô ấy? Chẳng hạn như An tôn Nam (**), một y sĩ và giáo
lý viên, đã không sợ hãi chèo ra chỗ nước sâu. Ông đã nói
với người con gái đang khóc thương mình rằng: " Này con, đừng
khóc mà làm cho cha đau lòng; trái lại hãy vui lên, chúc tụng Chúa,
cảm tạ Người vì Người thương cho cha được vinh phúc tử vì
đạo." Cho đến ngày nay, gương mẫu của ngài đem lại lòng
can đảm cho tất cả mọi người Công giáo để vâng lời truyền
dạy của Chúa Giêsu mà chèo ra chỗ nước sâu.
Thánh Lễ này để kính nhớ Thánh Linh Mục Anrê Trần An
Dũng Lạc và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bởi vì chúng ta
chia xẻ với các ngài cùng một thân thể và máu thánh Chúa
Kitô. Chúng ta biết rằng đức tin của các ngài, lòng sốt
mến của các ngài, và lòng vâng phục Chúa Kitô của các ngài
không chỉ là câu chuyện để hoài niệm về quê hương.
Cuộc đời và gương sáng của các ngài là gương mẫu cho
chúng ta ngày hôm nay. Các ngài dạy cho chúng ta nhiệt thành
cho lòng tin, vâng lời Chúa Giêsu và can đảm lên.
Tháng Giêng năm 2001, tôi ở bên Rôma để tham dự các nghi
lễ kết thúc năm thánh. Sau khi đóng cánh cửa Năm Thánh
tại Đền thờ Thánh Phêrô trong dịp kỷ niệm 2000 Năm
lịch sử Công Giáo, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ đệ nhị đã
bắt đầu thiên niên kỷ thứ ba bằng việc ký Tông Thư
Novo Millennio Ineunte (Tiến vào Thiên niên kỷ Thứ Ba). Trong
đó, ngài mời gọi các tín hữu trên toàn thế giới lắng
nghe lệnh truyền của Chúa Giêsu, "Chèo ra chỗ nước sâu."
(Luca 5:4).
Trong bức Tông Thư, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolồ đệ nhị
mời gọi tôi và qúy ông bà anh chị em hãy đối diện với
Ngàn Năm Thứ Ba với cùng một lòng bạo dạn của Phêrô; cùng
một lòng vâng phục của Các Thánh Tử Đạo Canada, cùng
một lòng can trường của Cha Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc và
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Như Các Thánh Tông Đồ, có
lẽ chúng ta mệt mỏi, sợ hãi và chán chường. Nhưng lời
Đức Thánh Cha khích lệ chúng ta đối diện Ngàn Năm Thứ
Ba với lòng nhiệt thành và can đảm, theo gương Các Thánh
Tử Đạo Việt Nam.
Ba trăm sáu mươi năm trước, Các Thánh Tử Đạo Canada đã
mang theo một sứ mạng. Họ xây dựng Công Đoàn Ville Ste.
Marie giữa những người thổ dân Huron. Nền móng công trình
này của họ không chỉ là những gì được tìm thấy trên
cánh đồng gần đây. Không. Những vị truyền giáo Canada
can trường đã chọn Chúa Kitô làm nền móng cho cơ sở
truyền giáo của họ. " Chúa Kitô là viên đá góc tường"
của cơ sở truyền giáo ở Ville Ste. Marie tại Midland, ngay
chỗ này đây.
Tôi biết rõ là có rất nhiều qúy ông bà anh chị em cũng
đã mạo hiểm khi hơn 25-30 năm trước đây đã "chèo ra
chỗ nước sâu." Rất nhiều, nếu không phải là tất
cả, qúy ông bà anh chị em đã đến Canada sau khi đã vượt
biển. Chèo ra chỗ nước sâu, qúy ông bà anh chị em đã
được Chúa đưa đến cùng một địa điểm mà Các Thánh
Tử Đạo Canada đã được Chúa đưa đến. Và như Các Thánh
Tử Đạo Việt Nam, qúy ông bà anh chị em được Chúa ban
cho sức mạnh, lòng tin, lòng can đảm để đến được
Canada. Qúy ông bà anh chị em đã giữ vững đức tin theo gương
của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đừng bao giờ quên gương
mẫu của các ngài. Cũng đừng quên gương mẫu của Các Thánh
Tử Đạo Canada, bởi vì như các ngài, qúy ông bà anh chị
em cũng có một công đoàn để dựng xây. Qúy ông bà anh
chị em cũng có một sứ mệnh là xây dựng đức tin trên
miền đất Canada này
Thiên Chúa có mục đích khi ban tặng ơn của Người cho chúng
ta. Các Thánh Tử Đạo Canada là những người đã xây dựng
nên Ville Ste. Marie không phải với gạch và gỗ nhưng với lòng
tin, với Chúa Kitô là tảng đá góc tường. Cũng thế, qúy
ông bà anh chị em cũng có một sứ mệnh được Chúa giao phó
là xây dựng xứ đạo của mình ngay tại Canada với gia đình,
với tiền nhân trên tảng đá góc tường là chính Chúa Kitô.
Qúy ông bà anh chị em hãy trang bị cho con cháu mình đức
tin và lòng can trường bằng việc vâng phục Đức Kitô. Đó
là di sản mà các tiền nhân anh dũng, Thánh Linh Mục Anrê
Trần An Dũng Lạc và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, đã để
lại cho qúy ông bà và anh chị em. Amen" (+ Most Rev.
Richard J. Grecco)
Chú thich: (*) Đền Thánh Quốc gia sùng kính Các Thánh Tử Đạo
Canada tại Midland, Ontario- nơi đây Các ngài đã hiến dâng
mạng sống để làm chứng cho Đức Tin Công Giáo. Tuy nằm
trong lãnh thổ Tổng Giáo phận Toronto nhưng theo truyền
thống cho qúy Cha và Tu sĩ Dòng Tên Canada tại Quebec quản lý
và phụng vụ. Được Đấng Bản quyền TGP cho phép và sự
đồng ý của Cha Giám Đốc Đền Thánh; một dự án xây
dựng Đền dâng kính Đức Mẹ La-Vang Nữ Vương Các Thánh
Tử Đạo Việt Nam sẽ được thực hiện khi thuận tiện.
(*) Linh Mục Dòng Tên, A Lịch Sơn Đắc Lộ (thường quen
gọi cha Đắc Lộ) là phiên âm họ và tên viết theo Hán
Việt của cha Alexandre de Rhodes. Dòng Tên (Society of Jesus
viết tắt là SJ, Dòng Chúa Giêsu. Tại Việt Nam theo truyền
thống kỵ húy danh thánh Dòng Danh Thánh Chúa Giêsu nên gọi
là Dòng Tên.)
(*) Năm 1627 (trích theo Niên Biểu Công Giáo Việt Nam, chương
11-Niên Giám 2004 trang 204: ngày 19 tháng 03 năm 1627, Cha Đắc
Lộ tới Cửa Bạng trong đoàn truyền giáo do Linh mục Pedro
Marques dẫn đầu. Ngày 02 tháng 07 năm 1627, họ tới Thăng
Long và dâng tặng lễ vật lên chúa Trịnh Tráng ở Đàng
Ngoài lúc đó thuộc triều đại của Vua Lê Thần Tông
(1619-1643), ở Đàng Trong lúc đó thuộc Ở Đàng Trong lúc đó
ở thời chuá Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.
Nói thêm vào năm 1624 thời chúa Sãi, các LM Alexandre de
Rhodes, Girolamo Majorica, Gaspar Luis, Gabriel de Mattos, Melchior
Ribeiro, và Mathias Machida đến Hải Phố để học tiếng
Việt với LM Fancisco de Pina SJ. Các ngài cũng chứng kiến
Lễ ban phép Thánh Tẩy cho bà Minh Đức Vưuơng Thái Phi
(1568-1648), bà là thứ phi của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Bà
được mang tên thánh là Maria Magdalena.
(**) ông Anton Nam: cũng theo Niên biểu nêu trên trang 232 và
Thiên Hùng Sử 117 Hiển Thánh Tử Đạo Việt Nam (trang
201-204; Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam San Jose, California USA
1990. Trong bài giảng cung cấp không có dấu ă, vì vậy đây
chính là thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh, sinh 1768 tại làng
Mỹ Hương, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Là con thứ năm
của ông Antôn Nguyễn Hữu Hiệp và bà Magdalena Lộc nên còn
được gọi là ông Năm Quỳnh.
Bị buộc phải gia nhập quân đội Nguyễn Ánh, giải ngũ năm
1802 với cấp bậc Vệ Úy. Ngài về quê làm ruộng, học
nghề làm thuốc và trở nên luơng y danh tiếng trong vùng. Là
Trùm trưởng làng Mỹ Hương, ngài bị bắt năm 1838 thời
vua Minh Mạng và bị kết án xử giảo giam hậu. Vì cương
quyết không chối bỏ đạo và không chịu bước qua Thánh
Giá, ngày 10/07/1840 cùng với thày giảng Phêrô Nguyễn Khắc
Tự, hai ngài bị xử giảo tại pháp trường Đồng Hới,
Quảng Bình.
Đức Giáo Hoàng Lêo thứ 13 đã suy tôn ngài lên bậc Chân
phước ngày 27/05/1900. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-Lồ đệ
nhị đã tuyên phong Chân phước Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh (Năm)
lên hàng Hiển thánh Giáo Hội trong 117 Thánh Tử Đạo Việt
Nam ngày 19/06/1988.
Câu đối trên bia mộ thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh tại làng
Kim Sen, Quảng Bình còn ghi:
"Nghiã khí nêu cao trên đất nước
Oai linh phù hộ khắp non sông."
Dominic David Trần
VietCatholic News
|