ĐHY Phạm Đình Tụng: chứng nhân lịch sử của thời đại chúng
ta
SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH HIỆN DIỆN VÀ PHỤC
VỤ CỦA ĐHY PHAOLÔ TỤNG (1919-2008)
Đức Hồng Y sinh ngày 20.05.1919 trong một gia đình gia giáo và đạo
đức tại thôn Cầu Mễ, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh
Bình, thuộc Giáo xứ Quảng Nạp, Giáo phận Phát Diệm. Thân
phụ của ngài cụ cố Phêrô Phạm Văn Hiến, một người đạo
đức và có học trong làng, còn thân mẫu của ngài là cụ cố
Anna Nguyễn Thị Bống vốn là một người hiền lành, giầu lòng
hy sinh và bác ái.
Năm 1925 ngài bắt đầu đi học tiểu học tại trường làng và
năm 1927 ngài theo linh mục nghĩa phụ Phêrô Phạm Bá Trực lên
học tại Hà Nội.
Năm 1929 ngài được gia nhập Trường thử Hà Nội. Năm 1931, ngài
thi đậu bằng sơ học yếu lược và được tuyển vào Tiểu
Chủng viện Hoàng Nguyên, Hà Tây.
Năm 1940, ngài được gọi vào Đại Chủng viện Liễu Giai, Hà
Nội. Sau hai năm học triết học, ngài đi thực tập mục vụ
tại Giáo xứ Khoan Vĩ. Mãn hạn thực tập mục vụ, ngài trở
lại Đại Chủng viện để tiếp tục chương trình thần học.
Năm 1945 Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, đất nước loạn ly, Đại
Chủng viện Liễu Giai phải đóng cửa, ngài tạm thời phải
dừng việc học tập và tu dưỡng.
Năm 1948, tình hình chính trị xã hội ở Hà Nội tạm ổn định,
ngài được gọi về Đại Chủng viện Hà Nội mới được thành
lập ở số 40 Nhà Chung để hoàn tất chương trình đào tạo.
Hằng ngày ngài cũng các chủng sinh khác sang học thần học tại
Học viện Dòng Chúa Cứu Thế ở tu viện Thái Hà Ấp, Hà Nội.
Ngày 06.06.1949, ngài được thụ phong linh mục tại Nhà thờ Chính
Toà Hà Nội và được Bản quyền Giáo phận Hà Nội bổ nhiệm
về phục vụ tại Cô Nhi viện Têrêxa do Đức cha Paul Seitz - khi
ấy hãy còn là linh mục-làm giám đốc.
Năm 1950, ngài được bổ nhiệm làm Phó xứ Hàm Long, Hà Nội.
Trong thời gian này ngài thành lập nhà tế bần Bạch Mai nhằm
cứu giúp các nạn nhân chiến tranh nghèo khổ từ các vùng nông
thôn trôi dạt về Hà Nội.
Năm 1955, ngài được bổ nhiệm làm Giám đốc Tiểu Chủng viện
Thánh Gioan Hà Nội- Một tiểu chủng viện liên giáo phận với
khoảng hơn 200 chủng sinh thuộc hầu hết các giáo phận ở
Miền Bắc lúc bấy giờ.
Năm 1960, vì muốn bảo vệ sự độc lập của Giáo Hội trong lãnh
vực đào tạo giáo sĩ, vì không muốn các chủng sinh phải giao
tiếp với các giáo viên đến từ bên ngoài và học những môn
nguy hiểm cho đức tin và cho đời tu mà nhà nước áp đặt trong
chương trình, ngài đã cùng các đấng hữu trách quyết định
cho các chủng sinh về lại các giáo phận của mình, chấp nhận
giải tán tiểu chủng viện.
Năm 1963, ngài được Toà Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Tông toà
Giáo phận Bắc Ninh và ngài đã thụ phong giám mục tại Nhà
thờ Chính toà Hà Nội ngày 15.08.1963. Khẩu hiệu giám mục của
ngài là “Tôi tin vào tình yêu Thiên Chúa”. Tại giáo phận đã
bị tan nát vì chiến tranh này, trong thiếu thốn, khổ đau, cấm
cách và bắt bớ, ngài đã có nhiều sáng kiến độc đáo trong lãnh
vực mục vụ để giữ vững đức tin, chăm sóc các tín hữu,
bảo vệ và xây dựng Giáo Hội. Ngài cũng đã âm thầm và kín
đáo đào tạo và phong chức linh mục cho một số ứng viên mà
ngài xét là xứng đáng đồng thời thành lập Nữ Tu hội Đức
Mẹ Hiệp Nhất Bắc Ninh.
Năm 1990 ngài còn được bổ nhiệm làm Giám quản Tông Toà Giáo
phận Hà Nội. Đến ngày 13.04.1994, ngài chính thức được Toà
Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Hà Nội và ngày 26.11.1994, ngài
được phong Hồng Y. Trong thời gian này ngài còn kiêm nhiệm
nhiều chức vụ quan trọng như: Giám đốc Chủng viện Hà Nội
(1990-2003), Giám quản Tông Toà Giáo phận Lạng Sơn (1998-1999),
Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam (1995-2001).
Ngoài những việc mục vụ thông thường, trong vị thế của mình,
ngài đã ra sức tái thiết Đại Chủng viện Hà Nội, tìm cách
đối thoại với chính quyền để Giáo hội được độc lập và
tự chủ hơn trong việc tuyển chọn chủng sinh, tìm cách cho các
linh mục thụ phong âm thầm được ra làm mục vụ công khai, xúc
tiến mối liên hệ giữa Toà Thánh và chính quyền Việt Nam, tổ
chức và xây dựng nhân sự lãnh đạo cho các giáo phận ở
Miền Bắc. Ngài còn sáng lập Nam Tu đoàn Truyền tin và Nữ Tu đoàn
Truyền giáo Truyền tin tại Tổng Giáo phận Hà Nội.
Năm 2003, ngài được Toà Thánh chấp thuận cho nghỉ hưu ở
tuổi 84 sau khi đã lo liệu cho Tổng Giáo Phận Hà Nội được có
người kế vị là Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt. Mặc dù tuổi
cao, sức yếu, ngài vẫn sẵn sàng tiếp đón và giúp đỡ mọi
người đến với ngài ở Toà Giám Mục trong mức độ có thể
được. Ngài cũng tiếp tục quan tâm tới các vấn đề của Giáo
hội và xã hội, cầu nguyện và chúc lành cho mọi người.
Ngài là một trong những gương mặt vĩ đại của Giáo Hội
Việt Nam, là chứng nhân lịch sử của Giáo Hội ở Miền Bắc
trong hơn 70 năm qua. Ngài đã góp phần to lớn và quan trọng trong
việc xây dựng Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt là trong các lãnh
vực tông đồ, đào tạo, tổ chức nhân sự và quan hệ ngoại
giao. Cuộc đời phục vụ của ngài còn để lại cho chúng ta
nhiều bài học quý giá trong công cuộc xây dựng Giáo Hội hôm
nay.
Lm Thanh Bình
VietCatholic News (24/01/2008)
|