Ba lời nhắn nhủ cuối cùng về Ðức HY Văn Thuận
Bài giảng của Ðức Thánh Cha trong lễ an táng

VietCatholic News (Thứ Hai 23/9/2002) - Ðức Gioan Phaolô II trưng chúc thư thiêng liêng của ngài: "Hãy yêu mến Ðức Trinh nữ và hãy trông cậy thánh Giuse, hãy trung thành với Giáo hội. Hãy đoàn kết và đầy lòng yêu thươnhg mọi người": Dức Gioan Phaolô II nêu lên ba lời nhắn nhủ này trong chúc thư thiêng liêng của Ðức Hồng Y Phanxico Xavie Nguyển văn Thuận, khi giảng lẽ an táng cử hành chiều ngày Thứ Sáu 20/9 trong vương cung vatican trước sự hiện diện một phái đoàn giám mục Việt nam.

Ðức giáo hoàng đã đi trực thăng từ đền tông đồ Castelgandolfo về chủ lễ với phần ban bài giảng và nghi lễ từ biệt, Ðức Hồng Y quốc vụ khanh Angelo Sodano chủ sự Thánh Lễ: 

Ðây là bản dịch mau lẹ của chúng tôi, về bài giảng của đức Gioan Phaolô II, bằng tiếng Ý. 

1. Họ vẫn chứa chan hy vọng, được trường sinh bất tử (Kn3, 4). Những lời đầy an ủi này trong sách Khôn ngoan mời chúng ta dâng lên, trong ánh sáng hy vọng, kinh cầu của chúng ta cho linh hồn được tuyển chọn của Hồng Y Phanxico Xavie Nguyển văn Thuận chúng ta thương tiếc, ngài đã đặt tất cả cuộc đời mình dưới dấu chứng hy vọng. 

Chắc chắn sự khuất bóng của ngài gây đau buồn cho những ai đã quen biết và yêu mến ngài: gia đình ngài, cách riêng mẹ ngài, tôi lại bày tỏ cho bà sự gần gũi yêu thương của tôi. Tôi cũng nghĩ tới Giáo hội Việt nam yêu quí, người đã sinh ngài trong đức tin, và tôi cũng nghĩ tới toàn thể dân Vietnam, mà đức hồng y đáng kính đã công khai nhắc tới trong chúc thư thiêng liêng của ngài, bằng cách khẳng định luôn luôn yêu mến. Tòa Thánh mà ngài đã phục vụ qua những năm cuối đời ngài, than khóc hồng y Văn Thuận. 

Với tất cả, cũng trong lúc này, xem ra ngài gởi lời mời hy vọng, với một tình yêu thuyết phục. Trong năm 2000 khi tôi xin ngài hướng dẫn những suy tư trong Tuần Tỉnh tâm Giáo triều Roma, ngài đã chọn chủ đề: "Những chứng nhân hy vọng". Bây giờ Chúa đã thử ngài " như vàng trong lò" và đã đón nhận ngài "như một của lễ toàn thiêu", chúng ta có thể nói thật rằng :lòng hy vọng của ngài đầy tràn sự trường sinh bất tử "(x. Kn 3, 4-6). Nghĩa là hy vọng đó đầy tràn Chúa Kitô, sự sống và sự sống lại của những ai trông cậy nơi Người. 

2. Hãy hy vọng trong Chúa! Chính bằng lời mời đặt sự trông cậy chúng ta vào Chúa mà hồng y yêu dấu đã khởi sự những suy tư tuần Tỉnh tâm. Những lời khuyên của ngài đã in sâu vào ký ức của tôi do chiều sâu những suy tư của ngài, luôn luôn thêm phong phú với những kỷ niệm cá nhân ngài, phần lớn liên hệ với 13 năm ngồi tù. Ngài thuật lại rằng chính lúc ngồi tù, ngài đã hiểu nền tảng đời sống kitô hữu là "chọn một mình Chúa mà thôi", bằng cách phó thác hoàn toàn trong tay phụ tử Chúa. 

Chúng ta được kêu gọi tất cả, hồng y nói thêm dưới ánh sáng kinh nghiệm cá nhân của ngài, phải loan báo "Tin Mừng hy vọng", và ngài xác quyết: chỉ nhờ đặc tính triệt để hy sinh mà người ta có thể hoàn thành ơn gọi này, dầu ở giữa những thử thách cam go nhất. "Làm tăng giá trị tất cả đau đớn, ngài nói, như một trong vô số gương mặt của Chúa Giêsu bị đóng đinh và kết hợp gương mặt đó với gương mặt của Người, có nghĩa là đi vào trong chính động lực đau đớn -tình yêu của Người, điều đó có nghĩa là thông phần vào ánh sáng của Ngừoi, vào sức mạnh của Người, vào sự bình an của Ngừoi, điều đó có nghĩa là tìm lại nơi chúng ta một sự hiên diện của Chúa, mới mẻ và trọn vẹn hơn" (Những chứng nhân hy vọng, Rome 2001, bằng tiếng ý, p. 124). 

3. Người ta có thể tự hỏi do đâu ngài có sự nhẫn nại và can đảm luôn làm đặc tánh riêng của ngài. Ngài đã trông cậy, về vấn đề này, vào sự kiện là ơn thiên triệu linh mục của ngài được liên kết cách nhiệm mầu nhưng có thật với máu các vị tử đạo đã chịu chết thế kỷ trước khi các vị rao giảng Tin Mừng tại Việt nam. "Các thánh tử đạo, ngài nhận xét, đã dạy chúng ta nói "vâng": một cái "vâng" vô điều kiện, không hạn chế đối với tình yêu Chúa, mà còn một cái "không" cho những phỉnh nịnh, những thỏa hiệp, bất công, dầu với mục đích cứu mạng sống mình" (ibid. pp. 139-140). Và ngài nói thêm đây không phải là là tính anh hùng nhưng là lòng trung đã chín mùi bằng cách quay nhìn Chúa Giêsu, gương mẫu của mọi chứng nhân và mọi vị tử đạo. Một gia sản phải tiếp nhận hằng ngày trong một đời sống đầy tình yêu và hiền hoà. 

Khi dâng lời kính nhớ cuối cùng cho vị sứ giả anh hùng Tin Mừng Chúa Kitô, chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta, một gương sáng gắn bó kitô hữu cho đến mức tử đạo. Ngài đã nói về mình một cách đơn sơ gây xúc động: "Trong vực thẳm những đau khổ của tôi, tôi không bao giờ thôi yêu thương mỗi người, tôi không loại trừ ai khỏi tim tôi" (ibid. p. 124). 

Bí quyết của ngài là một sự trông cậy bất khuất vào Chúa, nuôi dưỡng bằng kinh nguyện và sự đau khổ chấp nhận với tình yêu. Trong tù, hồng y cử hành Thánh Thể mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay. Dó là bàn thờ của ngài, là nhà thờ chánh toà của ngài. Mình Thánh Chúa Kitô là "thuốc uống" của ngài. Người thuật lại cách cảm động: "Cứ mỗi lần, tôi đã có thể giang tay và đóng đinh mình vào thánh giá Chúa Giêsu, cùng uống với Người chén cay đắng nhất. Mỗi ngày khi đọc những lời truyền phép, tôi củng cố hết lòng và hết linh hồn tôi một giao ước mới. Một giao ước đời đời giữa tôi và Chúa Giêsu , bằng máu của người pha trộn với máu của tôi" (ibid. p. 168). 

5. "Ðối với tôi, sống là chính Chúa Kitô" (Ph 1, 21). Trung tín cho đến chết, hồng y Nguyển văn Thuận đã làm của mình câu phát biểu của tông đồ Phaolô chúng ta vừa nghe. Ngài đã giữ sự bình thản và cả niềm vui trong lúc nằm bệnh viện lâu ngày va đau đớn. . Những ngày cuối cùng, khi ngài không còn khả năng nói nữa, ngài nhìn chăm chăm vào thánh giá trước mặt ngài. Ngài cầu nguyện trong thinh lặng, hoàn tất sự hy sinh cuối cùng của ngài, để hoàn thành một cuộc sống đánh dấu bởi sự đồng hình đồng dạng anh hùng của ngài với Chúa Kitô trên thánh giá. Những lời Chúa Giêsu đã công bố trong ngày áp lễ Vượt Qua, áp dụng rất đúng cho ngài: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, thì nó mới sinh được nhiều hạt khác. "(Ga 12, 24). 

Chỉ nhờ hy sinh chính mình mà người kitô hữu góp phần vào phần rỗi thế gian. Ðúng như vậy đối với người anh em đáng kính của chúng ta. Ngài lìa bỏ chúng ta, nhưng gương sáng của ngài vẫn ở lại. Ðức tin bảo đảm chúng ta rằng ngài không chết, nhưng ngài vào trong ngày đời đời, ngày không có lúc tàn. 

6. "Lạy mẹ Maria rất thánh... xin cầu cho chúng con... trong giờ lâmtử". Trong tù, khi không thể đọc kinh, ngài chạy tới Ðức Maria: " Lạy Mẹ, Mẹ thấy con đang ở giới hạn cuối cùng, con không còn sức đọc một kinh nào. Lúc đó... phó dâng mọi sự trong tay Mẹ, tôi chỉ lập đi lập lại "Kính mừng Maria!" (ibid. p. 253). 

Trong chúc thư thiêng liêng của ngài, sau khi đã xin lỗi, hồng y chúng ta thương tiếc khẳng định tiếp tục yêu mỗi người. "Tôi bình thản ra đi, ngài quả quyết, và tôi không giữ hận thù với ai. Tôi dâng tất cả những đau khổ đã qua của tôi cho Ðức Vô nhiễm Maria và thánh Giuse ". 

Chúc thư kết thúc với ba lời nhắn nhủ: "Hãy yêu mến Ðức Trinh Nữ rất Thánh và hãy trông cậy vào thánh Giuse, hãy trung thành với Giáo hội, hãy đoàn kết và yêu thương mọi người". Ðó là sự tổng hợp của đời sống ngài. 

Ước chi bây giờ ngài được đón tiếp, với thánh Giuse và Ðức Maria, hầu chiêm ngưỡng trong vinh quang thiên đàng, gương mặt vinh hiển Chúa Kitô, mà ngài đã khát khao tìm kiếm trên đời này như niềm hy vọng độc nhất của ngài. 
Amen! 

Ðức Ông Nguyễn Quang Sách