Một thoáng suy tư trong Tháng Các Linh
Hồn:
Có hỏa ngục hay không?
Ở Âu Châu, tháng mười một là một tháng u buồn ảm đạm nhất
trong năm : Khí trời mới vào đông tuy chưa có tuyết rơi, nhưng
rất lạnh lẽo giá buốt, sương mù dăng dăng dầy đặc và những
làn mưa phùn bay phất phơ trong từng cơn gió lạnh, làm thấm ướt
cả áo măng-tô của các khách bộ hành qua lại trên phố xá. Và cũng
chính tháng mười một đã được Giáo Hội chọn làm Tháng Các
Linh Hồn, nghĩa là thời gian dùng để kính nhớ và cầu nguyện
cho các người đã quá cố.
Hành động đó đã minh nhiên chứng minh rằng chết không phải là
hết, nhưng sau khi chết con người còn tiếp tục sống và sống
một cuộc sống vĩnh cửu. Nhưng ở đây một câu hỏi được đặt
ra là sau khi từ bỏ cõi đời này, chỉ có Thiên Đàng là nơi vĩnh
cửu duy nhất sẽ đón nhận các các người đã quá cố hoặc còn
có nơi nào khác nữa, hay nói rõ hơn, có hỏa ngục hay không?
Theo tâm lý tự nhiên ngày nay, đa số người đương thời có
khuynh hướng muốn được yên thân sống thoải mái dễ dãi, chứ
không muốn nhắc đến luân lý, đạo đức hay tội lỗi nữa. Vì
thế họ cũng không muốn đề cập tới vấn đề hỏa ngục, nếu
không nói là họ phủ nhận sự hiên hữu của hỏa ngục.
Nhưng ít nhất vẫn còn có Sting, tên thật là Gordon Summer (1951),
một ca sĩ nhạc Rock nổi tiếng người Anh, luôn tin có hỏa ngục,
một nơi có mặt của mọi thành phần xã hội : từ các quan tòa,
các luật sư, các Hồng Y, Giám Mục, các nhạc sĩ, các ca sĩ,
v.v…! Trong một bài hát thuộc loại nhạc kích động với tựa đề
bằng tiếng Anh: «Saint Augustine in Hell» (Thánh Augustinô ở
trong hỏa ngục), Sting đã hát: «They’re all here,You’re not alone»
(Tất cả họ đều có mặt ở đây. Chứ không phải một mình anh
đâu). Bài hát đề cập tới việc vị thánh nhân đã ra sức vất
vả chống lại sự cám dỗ về đức trong sạch khi phải đứng trước
một người phụ nữ nhan sắc đầy quyến rủ.
Thật cả là một hiện tượng quá ngạc nhiên, hoàn toàn vượt
quan niệm thường tình: Trong hỏa ngục cũng có cả sự hiện
diện của những bậc vĩ vọng, những người khi còn sống đã
từng đóng vai trò người bảo vệ luân lý, đạo đức và công
bằng, và theo sự phán đoán bình thường nhân loại, thì họ là
những người sau khi chết sẽ được bay thẳng về Thiên Đàng. Còn
hỏa ngục là nơi chỉ dành cho những kẻ đã phạm những tội ác
nặng nề chống lại nhân loại, như: Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông,
Pol Pot, Nero, Giu-đa, Napoléon, hay những bọn khủng bố, nhửng kẻ
giết người như ngóe, bọn phản bội hại người hay những kẻ
cực đoan đã gây nên bao tang thương đau khổ và chết chóc cho hàng
triệu người vô tội, tiêu hủy cả một nền văn hóa của nhân
loại, và không ngừng gieo rắc hận thù, ghen ghét trên khắp thế
giới.
Cái hố sâu trong hỏa ngục
Vâng, theo quan niệm đại chúng thì những kẻ đã gây nên những
tội ác như thế cần phải được trừng phạt một cách đích đáng,
và - dựa theo luật công bằng - sự trừng phạt đó có thể vượt
sang cả bên kia thế giới vĩnh cửu nữa.
Tuy nhiên, trong cuộc sống cụ thể, người ta thường dùng danh
từ «hỏa ngục» như một cách so sánh hay có tính cách ẩn
dụ, để ám chỉ những khó khăn to nhỏ trong cuộc sống hằng ngày.
Ví dụ: Trong một chuyến đi nghĩ hè xa mà phải ngồi chờ cả ngày
tại phi trường hay tại nhà ga xe lửa, hết ngồi rồi lại đứng,
bởi vì máy bay hay tàu bị trục trặc hay vì một sự cố nào đó
xảy ra, nên phải hủy chuyến bay hoặc phải đến trể; khi khởi
công xây nhà mà trời cứ mưa tầm tả cả ngày; khi con cái và
mọi người trong nhà đau ốm liên miên, nhưng tiền dành dụm lại
không còn, vay mượn thì không ai cho; hay: cảnh phải lam lũ vất
vả cả ngày mà kiếm không đủ cơm nuôi gia đình; nhất là khi
cuộc sống trong gia đình hoàn toàn thiếu đầm ấm, bất hạnh phúc,
vợ chồng lục đục bất hòa với nhau suốt ngày v.v… Bấy giờ
đó quả là «hỏa ngục!» và người ta mới cảm nhận được
sự đau đớn và thất vọng chua xót trong lòng trước niềm khao khát
được cơm no áo ấm, được một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc.
Nhưng cả khi phải đối mặt với những thử thách và khó khăn
vất vả như thế, người ta cũng chưa hẳn tin hỏa ngục như là
một nơi có thực. Trái lại, người ta đã tương đối hóa hỏa
ngục và sử dụng nó như một kiểu chơi chữ, như một nơi giả
tưởng để diễn tả một sự chịu đựng đắng cay nào đó mà
thôi. Đó chính là điều mà các nhà tâm lý học, triết gia và văn
họa sĩ của thế ký XX vừa qua đã làm, và quan điểm đó của
họ đã để lại một ảnh hưởng sâu rộng trong ngôn ngữ cũng
như trong tư tưởng của các tầng lớp xã hội.
Quả vậy, nhà phân tâm học Sigmund Freud và giáo sư tâm lý học
C.G. Jung đã diễn tả ý niệm «hỏa ngục» chỉ còn như là
cái vực sâu thẳm nhất của nội tâm con người; còn trong cuốn
tiểu thuyết nổi danh «Doctor Faustus» của ông, văn hào
Thomas Mann đã coi «hỏa ngục» như là biểu hiệu cho sự man
rợ ghê tởm, xảy ra dưới chế độ diệt chủng Đức Quốc Xã;
trong khi đó, triết gia Jean-Paul Sartre - bằng một hình thức hiện
sinh nhẹ nhàng – lại cho thấy rằng «hỏa ngục» luôn luôn
là «những người khác». Hỏa ngục được coi như một nơi
hoàn toàn và tuyệt đối không có sự hiện diện của Thiên Chúa,
dù một lời nói hay một dấu hiệu cũng hoàn toàn không.
Tuy nhiên, điều đó không luôn luôn như vậy. Đặc biệt nhất là
các bức hình thời trung cổ trình bày về ngày Phán Xét Chung - mà
ngày nay người ta còn tìm thấy trên trần các nhà thờ chánh tòa
và vương cung thánh đường cỗ hay trong bản văn Sách Khải Huyền
của thánh Gioan tông đồ - đã vẽ lên một cách rõ ràng và đầy
ấn tượng tình trạng của những kẻ bị kết án trầm luân trong
hỏa ngục. Trong khi đó, chữ «hỏa ngục» trong tiếng Do-thái
là «Ge hinnom», hoàn toàn chỉ có nghĩa là vùng thống trị
của ma quỷ mà thôi; khác với chữ «âm phủ» (nước của
những kẻ chết) mà trong tiếng Do-thái là «Scheol» và cũng
khác với các quan niệm Hy Lạp thời thượng cổ về nước của
kẻ chết, tức thế giới của tối tăm.
Những trình bày về hỏa ngục chỉ muốn nhắm cảnh giác và làm
cho người xem động lòng lo sợ, hầu họ biết ăn năn sám hối và
cải thiện cuộc sống, dựa trên ý nghĩa Kinh Thánh và những lời
dạy của Chúa Cứu Thế, ví dụ: «Thà cụt tay cụt chân mà
được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném
vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc
mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có
đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hỏa ngục.» (Mt 18,8-9)
Trong vùng ảnh hưởng nền văn hóa Tây phương nói chung, những hình
ảnh trình bày về hỏa ngục hay những suy diễn tưởng tượng
về hỏa ngục rất đa dạng. Vâng, có khi hỏa ngục được coi như
một nơi của thù oán; có khi lại được coi như một lò lửa cháy
bừng bừng đến vô tận; và nhiều khi còn được coi như núi
hỏa ngục. Trong cuốn tiểu thuyết nổi danh «La Divina Commedia»
của ông, Dante Alighieri (1265-1321), một thi hào người Ý, còn trình
bày hỏa ngục như một cái hố sâu mà Satan đã gây ra khi y bị rơi
từ Thiên đàng xuống.
Còn các danh họa Kitô giáo, như Hieronymus Bosch (1450-1516), Peter Paul
Rubens (1577-1640), Sandro Botticelli (1445-1510), hay Michelangelo (1475-1564),
đều trình bày hỏa ngục như chặng đường cuối cùng của cuộc
sống con người, chứ không còn là nơi thanh luyện hay cải hóa
nữa. Và có lẽ đó cũng là quan niệm chung của các nền văn hóa
và các tôn giáo khác.
Điều đó cũng nói lên rằng các danh họa Kitô giáo trên đã luôn
luôn trung thành với các giáo huấn truyền thống của Giáo Hội.
Bởi vì dựa theo lời Đức Giêsu trong Phúc Âm, nhiều thánh Giáo
phụ từ thế kỷ I cho tới thế kỷ III, ví dụ như Clemens de Rom,
Irenée de Lyon, đã khẳng định rằng người ta không được phép
đùa giỡn với một cuộc sống bên kia biên giới sự chết được,
vì đó là một sự thật minh nhiên. Và sau cái chết chỉ còn lại
hai nơi cư ngụ duy nhất cho con người: Hoặc Thiên đàng hoặc
hỏa ngục, có lẽ tạm thời còn có một nơi tạm trú thứ ba, đó
là Lửa Luyện Tội. Ngoài những chỗ đó ra, tuyệt đối không còn
bất cứ nơi chốn nào khác nữa.
Thế nhưng, bổng nhiên Origênê (185-254), thuộc hàng Giáo phụ,
lại giới thiệu một suy tư thần học mới : Thuyết «Apocatastase»
- sự cứu vớt muôn loài muôn vật. Origênê cho rằng sau cuộc
sống đời này, tất cả mọi tạo vật đều được trở về cùng
Thiên Chúa Tạo Hóa, còn hỏa ngục hoàn toàn trống rỗng. Đó
quả là một quan điểm có thể được coi là hấp dẫn, mang tính
cách nhân bản và tiến bộ. Vì thế, nhiều Giáo phụ thuộc thế
kỷ IV và thế kỷ V, như Gregoire de Nyssan đã chấp nhận thuyết đó.
Nhưng thuyết Apocatastase của Origênê chỉ kéo dài đến năm 553 thì
hoàn toàn chấm dứt. Công đồng đại kết Constantinople II đã tuyên
cáo: «Nếu ai nói hay nghĩ rằng hình phạt dành cho ma quỷ và
những kẻ vô đạo chỉ có tính cách tạm thời và trong một lúc
nào đó sẽ được chấm dứt hay sẽ có sự hồi phục lại cho ma
quỷ và những kẻ vô đạo, thì bị dứt phép thông công.»
Lời khẳng định: Từ hỏa ngục không hề có con đường nào
dẫn tới cùng Thiên Chúa, là một quan điểm trải qua bao thế kỷ
đã được chứng thực bởi các thị kiến của nhiều vị thần bí,
như Anna Catharina Emmerick, Anna Schäfer hay chân phước Padre Piô,
v.v…và trên nguyên tắc, mãi cho tới nay Giáo Hội vẫn không
chối bỏ. Trái lại, trong cuốn Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
(SGLHTCG), được phát hành năm 2005, còn được xác định: «Giáo
Hội dạy rằng có hỏa ngục và án phạt đời đời. Sau khi
chết, linh hồn kẻ còn mang tội trọng sẽ xuống hỏa ngục chịu
cực hình ‘lửa đời đời’» (SGLHTCG phần 1, đoạn 2, chương
3, mục 12, số 1035). Chính Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI trong
cuốn sách mới nhất của Người «Chúa Giêsu thành Na-da-rét»
cũng đã xác nhận rằng có hỏa ngục, và là một nỡi vĩnh viễn
dành cho những ai chối từ tình yêu Đức Kitô.
Án phạt đời đời
Tuy nhiên, ở đây người ta cũng có thể chân thành nêu lên câu
hỏi: Ngày nay còn có bao nhiêu người và bao nhiêu cơ quan đoàn
thể trong Giáo Hội thực sự coi trọng những phát biểu đó nữa?
Trong thời đại ngày nay, ai còn đầy xác tín nói về hoả ngục và
về án phạt đời đời? Và nếu trường hợp có người còn can
đảm dám làm chuyện đó, thì anh ta sẽ quả quyết thế nào về
hỏa ngục: là một nơi chốn, một tình trạng hay chỉ là một
cảm giác?
Thế hệ của những nhà thần học cũng như những vị giáo phẩm
trong Giáo Hội ngày nay, xem ra có một sự đồng thuận cho rằng,
hỏa ngục không phải là một nơi chốn dành để trừng phạt
những kẻ có tội với các đau khổ thể xác, nhưng là một điều
có tính cách trừu tượng, hay nói đúng hơn, đó là sự «xa lìa
Thiên Chúa», như chính ĐTC Gioan Phaolô II khi sinh thời cũng đã
từng phát biểu. Nhưng nói chung, tất cả những nhà thần học này
đều trung thành với giáo huấn của Giáo Hội về hỏa ngục.
Nhưng bên cạnh đó còn có những nhà thần học khác đã tìm cách
dựa theo khoa chú giải Kinh Thánh có tính cách phê bình sử quan, để
đưa ra một con đường trung dung khác, thay vì quan điểm «sự
cứu rỗi cho muôn loài muôn vật» và «sự hiện hữu của
hỏa ngục». Theo quan điểm thứ ba này thì hỏa ngục hiện
hữu thực sự và như một «khả hữu thực tiễn» (Karl
Rahner). Nhưng điều đó không có nghĩa là sẽ có một linh hồn nào
đó sẽ bị lạc đường sa vào chỗ ấy, bởi lẽ tình yêu và lòng
từ bi của Thiên Chúa thì bao la vô tận.
Sự chia lìa vĩnh cửu với Thiên Chúa
Đặc biệt tại đa số các cộng đoàn Kitô giáo thuộc vùng lãnh
thổ nói tiếng Đức, xem ra người ta có khuynh hướng chọn lối
cắt nghĩa thứ hai. Các giáo sĩ ngày nay ít đề cập đến hỏa
ngục trong các bài giảng của mình, vì họ thường quan niệm
rằng: trong vấn đến tín ngưỡng, nên tôn trọng sự tự do chọn
lựa của con người, hay nói rõ hơn, nên để giáo dân tự do
sống đạo theo sự ý thức của họ, chứ không nên giữ đạo vì
do sợ hãi khỏi phải xuống hỏa ngục. Phải chăng đây là một
quan niệm hoàn toàn đúng đắn?
Một điều không thể phủ nhận được là quan niệm trên đã từ
từ làm cho người ta quên đi sự nguy hiểm về cuộc sống xa lìa
vĩnh cửu với Thiên Chúa, nguồn sống và nguồn mọi hạnh phúc
của con người. Đồng thời nó cũng dẫn tới một hậu quả khác
nữa, đó là khuynh hướng tương đối hóa tội lỗi, nghĩa là
chỉ có tội nhẹ, chứ không còn có tội trọng nữa; và điều đó
cũng muốn nói rằng con người không còn nguy hiểm sợ mất sự
sống vĩnh cửu nữa.
Hay sự im lặng không muốn đề cập tới hỏa ngục như thế còn
có những lý do khác nữa? Phải chăng sự im lặng đó còn nhắm tránh
cho người tín hữu mặc cảm tội lỗi, bởi vì trong nhiều thế
kỷ qua, các bài giảng về hỏa ngục đã làm cho các tín hữu đâm
ra áy náy sợ hãi, vì lo mất linh hồn? Hoặc: phải chăng vì do
những lý do quyền lực, kinh tế hay chính trị, v.v… mà người ta
đã từng làm cho cuộc sống tâm linh của các tín hữu trở thành
lệ thuộc và mất tự do, khi trình bày cho họ hình ảnh về hỏa
ngục?
Nếu sự thể thực sự là như vậy, thì cần thiết phải tìm cách
giải quyết ngay cái mặc cảm phiền phức đó. Nhưng phải chăng
để làm cho công cuộc Phúc Âm hóa của Giáo Hội, mà Đức Gioan
Phaolô II cũng như Đức Bênêđíctô XVI đã khởi động và cổ vũ,
trở nên khả tín và khả thi, nếu khi người ta trình bày công
cuộc Cứu Rỗi của Đức Kitô và viễn tượng về Nước Trời,
tuyệt đối không được đả động tới những thực tại ngược
lại, hay nói rõ hơn, không được đề cập tới hỏa ngục?
Nếu sứ mệnh của Giáo Hội không chỉ dừng lại nơi những
hoạt động thiêng liêng và từ thiện được dành cho mọi tầng
lớp xã như các đoàn thể từ thiện khác vẫn làm, thì Giáo Hội
cần phải tái khám phá ra sự hiện hữu của hỏa ngục như một
biểu hiệu sự công bằng của Thiên Chúa, chứ không phải như
một dụng cụ để hành hạ hay trả thù. Vâng, mặc dù nói đến
hỏa ngục là một điều ít ai muốn nghe, nhưng sự hiện diện
của hỏa ngục cũng góp phần vào việc sống trọn tinh thần Phúc
Âm.
LM Gioan Bosco Nguyễn Hữu Thy
VietCatholic News
|