Việc độ vong trong Kitô giáo và Phật giáo
Nguyễn Chính Kết
Người Công giáo coi tháng 11 dương lịch hàng năm là tháng
cầu nguyện cho những nguời quá cố, còn gọi là tháng
các Linh Hồn,mà cao điểm là ngày 2-11, là ngày Lễ Cầu
Hồn. Nhưng người Phật tử và người theo "Ðạo tổ tiên"
lại coi tháng 7 âm lịch hàng năm mới là tháng để tưởng
nhớ, cúng kiếng và chú nguyện cho những người đã
khuất, mà cao điểm là lễ Vu Lan, ngày Rằm tháng 7, hay cũng
gọi là ngày Xá Tội Vong nhân.
Phật tử cũng như Kitô hữu đều tin rằng sau khi chết còn
có một đời sống khác, và những người còn sống ở
trần gian có thể giúp đỡ người đã chết – hiện đang
sống trong một đời sống khác – thoát khỏi canh khổ của
họ, hay giảm bớt đau khổ cho họ. Tuy nhiên quan niệm về
số phận của các vong nhân và về việc Ðộ Vong của hai
tôn giáo này (độ vong: cứu những linh hồn đã quá cố
đang đau khổ vì hình phạt) có nhiều điểm khác biệt.
Trong chiều hướng Hội Nhập Văn Hoá và tìm hiểu các Tôn
giáo, chúng ta thử so sánh hai quan niệm ấy, đồng thời rút
ra những điểm đồng dị.
QUAN NIỆM CỦA KITÔ GIÁO: SỐ PHẬN ÐỜI
SAU
Người Kitô hữu tin rằng con người chỉ có hai đời sống
:đời này và đời sau. Ðời này ngắn ngủi, hữu
hạn, còn đời sau vĩnh cửu, vô
hạn. Nhưng số phận của đời sau –hạnh phúc hay đau khổ-
lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào cách sống của con người
trong cuộc đời ngắn ngủi này, nhất là vào tình trạng
tâm hồn trong giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Người
nào khi chết vẫn có ân nghĩa với Thiên Chúa sẽ
được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Người nào
chết trong tình trạng thù nghịch với Ngài, tức mắc tội
trọng, thì bị phạt đời đời xa cách Ngài là nguồn hạnh
phúc của mình.
SỰ THANH LUYỆN
Tuy nhiên, để xứng đáng thấy Thiên Chúa, xứng đáng kết
hiệp với Ngài, Ðấng tuyệt đối hoàn hảo, và để hưởng
hạnh phúc đời đời, con người cũng phải trở nên hoàn
hảo, trong trắng như Chúa Giêsu đã nói :"Các con hãy nên
hoàn hảo như Cha các con trên Trời là Ðấng hoàn hảo
"(Mt 5,48). "Nếu sự công chính của các con không vượt
hơn những người Pharisiêu,các con không được vào Nước
Trời" (Mt 5,20). "Phúc cho những tâm hồn trong sạch,vì
họ sẽ thấy Thiên Chúa" (Mt 5,8). Hạnh phúc vĩnh cửu đòi
hỏi gắt gao như thế thì dù những người thánh thiện
nhất cũng không đạt được vì nhân vô thập toàn".
Do đó, để xứng đáng vào Nước Trời, để đạt
được tình trạng hoàn hảo trên, con người cần phải
được thanh luyện một thời gian trước khi vào …
Sự thanh luyện đó đã được Giáo Hội định tín trong
công đồng chung thứ 14, năm 1274 tại Lyon :"Linh hồn kẻ
chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau
khi chết với những hình phạt được gọi là thanh luyện"
(Ds 856/464). Tín điều đó đã được lặp lại trong nhiều
công đồng sau đó (xem DS 1580/840 ; 1620/983 ; 1867/998.)
Mục đích của việc thanh luyện làm cho linh hồn trở nên
hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một
chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Ðàng
đòi hỏi một sự hoàn hảo như thế, thật là hợp lý,
vì
đó là một "nơi" (Tạm gọi như thế. Thật ra , Thiên
Ðàng, Luyện
ngục hay Hỏa ngục không phải là những nơi hiểu theo nghĩa
không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh
hoặc tâm lý. Chẳng hạn Thiên Ðàng là tình trạng tâm
linh hoàn toàn hạnh phúc, không còn một chút đau khổ,
của
những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện, còn Hỏa ngục là
tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn
độc ác, xấu xa, ích kỷ…), hoàn toàn hạnh phúc, hoàn
toàn thánh thiện, là "nơi" chúng ta sẽ trở về để hưởng
hạnh phúc muôn đời. Không cần phải xét về phía Thiên
Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi điều đó.
Thật vậy, thử hỏi: khi trở về nơi lý tưởng đó để
hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải
sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết
xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu họ còn ích kỷ,
còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu
cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì họ có thể hoàn
toàn hạnh phúc và làm cho ta và những người chung quanh
họ cũng hoàn toàn hạnh phúc cho đến đời đời,
khôbng
hề gây ra một chút đau khổ náo không? Bản thân ta cũng
vậy, ta sẽ còn đau khổ và còn làm người khác đau khổ
nếu ta còn một chút xấu xa, ích kỷ, độc ác… chưa hoàn
hảo mà đã sống ở Thiên Ðàng thì ta sẽ làm ô nhiễm
cái hạnh phúc tinh tuyền –không vương chút đau khổ- của
Thiên Ðàng rồi, và biến Thiên Ðàng trở thành một cái
gì không còn là Thiên Ðàng nữa. Do đó, Thiên Ðàng đòi
hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch,
tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa, thì phải thanh luyện cho hết.
Sự thanh luyện đó được gọi là Luyện Ngục.
Chữ NGỤC khiến người ta liên tưởng tới một nơi
chốn, một
cảnh tù đầy.Thực ra không nên hiểu cụ thể như thế.
Nên
hiểu đó là một tình trạng của tâm hồn được thanh
luyện, được thánh hoá bằng những đau khổ nội tại cũng
như ngoại tại.
- Ðau khổ nội tại là đau khổ vì khát khao được ở gần
Thiên Chúa, kết hợp với Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc
của mình mà không đựơc. Sau khi chết, linh hồn hết sức
sáng suốt để nhận ra Thiên Chúa là nhu cầu khẩn thiết
nhất, là nguồn hạnh phúc đích thực của mình, nên lòng
khao khát Thiên Chúa lúc đó hết sức lớn lao. Tương tự
như người rất đói, rất thèm ăn, và có ngay trước mặt
một mâm cơm thịnh soạn, đầy hấp dẫn với đủ thứ cao
lương mỹ vị, mà lại bị trói chân, trói tay không ăn
được. Hay như hai tình nhân yêu nhau tha thiết mà phải sống
xa nhau.
- Còn đau khổ ngoại tại cũng được thần học bàn
tới, nhưng
không được định tín.Giáo Hội Hy lạp phủ nhận loại đau
khổ này. Khổ hình này được thần học truyền thống gọi
là "Lửa". Một vài Giáo hoàng diễn tả Luyện ngục
có lửa.(Ðức Innocentiô IV(1243-1254) và Ðức Clêmentê
VI (1342-1352) Lửa ở đời này là lửa mầu nhiệm, vừa
là vật chất vừa là tinh thần, vì có thể vừa đốt
được thân xác mà vừa đốt được các linh hồn). Sắc
lệnh của công đồng chung Firence (1438-1445) không còn dùng
từ ngữ "lửa" để diễn tả hình phạt nữa, vì các
nghị phụ Hy lạp không chấp nhận. Các nhà thần học hiện
nay cũng không thích lý thuyết nói về lửa đó nữa.
Trong tình trạng thanh luyện, người ta thường chỉ nghĩ tới
đau khổ các linh hồn đang trông chờ ngày gặp mặt Chúa
mà không lưu tâm tới tình trạng tích cực của họ.
Chắc
chắn các linh hồn ấy có một hạnh phúc rất lớn, rất
căn bản là biết chắc chắn mình được cứu rỗi,
được
Thiên Chúa yêu thương, (xem Ds 1488/778.), đồng thời họ mến
Chúa hết sức vì không còn gì trở ngại lòng yêu mến
ấy nữa, và họ cũng ý thức được sự cần thiết của
việc thanh luyện này, nên họ sẵn sàng và ước ao chịu
mọi khổ hình để sớm gặp Chúa. Lúc đó, khổ hình đối
với họ không còn là "khổ" nữa. Cũng như một thí
sinh sẵn sàng chấp nhận mọi cực nhọc mệt mỏi của việc
học để chuẩn bị một kỳ thi với hy vọng sẽ có một tương
lai huy hoàng. Việc thanh luyện vì thế trở thành tự nguyện.
Họ sung sướng vì được thanh luyện, được khổ vì
Chúa, vì
tình yêu.
VIỆC ÐỘ VONG
Thời gian thanh luyện lâu hay mau chắc chắn tùy thuộc vào
tình trạng hay mức độ hoàn hảo của mỗi linh hồn và
vào tình thương can thiệp của Chúa. Các tín hữu còn sống
có thể giúp các linh hồn được thanh luyện theo những
điều kiện nhất định, đó là một tín điều.
Công đồng Trentê định tín Lễ Misa có thể được dâng
lên để cầu nguyện cho người sống và kẻ chết, cho họ
được tha tội, tha hình phạt, cho việc đền tội và cho những
nhu cầu khác, (xem Ds 1753/950) đặc biệt cho những người
chết trong Ðức Kitô được tinh luyện (xem Ds 1743/940). Ngoài
lễ Misa, các tín hữu còn có những hình thức độ vong
khác (Ds 1820/693) như cầu nguyện, bố thí, và làm các việc
đạo đức (xem Ds 856/464). Người còn sống có thể đền
tội thay cho họ bằng những hy sinh hãm mình, chấp nhận những
đau khổ Thiên Chúa gửi đến một cách vui vẻ, vì một
chi thể có thể đền tội thay cho một chi thể khác trong cùng
một thân thể, vả lại, tội không chỉ có tính cách cá
nhân, mà còn có tính xã hội: sự liên đới chịu trách
nhiệm. Ðương nhiên, tín hữu còn sống càng trong sạch thánh
thiện bao nhiêu thì khả năng độ vong càng hữu hiệu bấy
nhiêu: Một chi thể chết" không thể giúp cho một chi thể
khác"sống" được.
Mọi việc độ vong đều phải qua tay Thiên Chúa chứ không
trực tiếp ảnh hưởng tới các linh hồn. Tuy nhiên,
Thiên
Chúa vẫn luôn luôn tự do. Sự độ vong của chúng ta không
phải là một pháp thuật có sức ép buộc Thiên Chúa
phải tha cho các linh hờn theo ý ta, hay ảnh hưởng tới
Thiên Chúa một cách máy móc, tự động theo những định
luật.
Việc độ vong trong Giáo Hội bắt nguồn từ việc làm của
Juda Macchabêô (2 Mcb 12,40-60). Thời đó, sau một trận
đánh, có
một số binh sĩ do thái tử trận. Khi lục soát các tử
thi, người ta tìm ra dưới áo họ ẩn dấu các đồ vật
để cúng tế các thần ngoại lai mà luật cấm. Người do
Thái tin rằng tuy họ chết đi, khi mang tội đó, nhưng họ vẩn
được cứu rỗi. Họ cầu nguyện để xin Chúa tha tội cho những
người ấy. Rồi họ quyên góp 2000 quan tiền nhờ Juda gửi
lên Jerusalem để tế lễ chuộc tội. Bản văn khen ông:"Ðó
là việc làm rất tốt lành và có giá trị cao quí do tin
vào việc sống lại, vì nếu không tin vào sự sống lại
thì cầu nguyện cho những người chết là uổng công vô
ích. Nếu ông nghĩ tới phần thưởng dành cho họ thì quả
là tư tưởng lành thánh và đạo đức. Vì thế, ông đã
dâng lễ xá tội để người quá cố được tha thứ tội
lỗi."
QUAN NIỆM CỦAPHẬT GIÁO LUẬT LUÂN HỒI VÀ
NHÂN QUẢ.
Trước hết, người Phật tử quan niệm cuộc đời hiện
tại không phải là kiếp sống duy nhất của mình mà chỉ
là một trong hàng trăm ngàn kiếp sống kết tục nhau như
những mắc xích trong cả một cuỗi xích dài vô tận.
Kiếp
hiện tại là quả của kiếp quá khứ mà cũng là nhân
cho kiếp tương lai. Nghĩa là nếu kiếp này mình làm lành
thì kiếp sqau gặp hiền, làm ác thì kiếp sau gặp dữ. Bất
cứ một động tĩnh nào trong tư tưởng, lời nói, hay việc
làm xảy ra nơi con người, đều có nguyên nhân trong quá
khứ và đều gây ra hậu quả trong tương lai. Ðó là luật
nhân quả. Chuỗi nhân quả không bao giờ chấm dứt.Vì
thế, con người chết đi để bắt đầu một cuộc sống
mới, một
kiếp khác.Và cuộc sống mới này mang hình thức nào tùy
thuộc cái nghiệp đã gây ra trong kiếp trước. Ðó là
luật luân hồi.
LỤC ÐẠO
Luân hồi có 6 nẻo, gọi là Lục Ðạo tức 6 cảnh giới,
sau khi chết, con người sẽ phải đầu thai vào một cảnh giới
trong đó tuỳ theo nghiệp lực đã tạo trong quá khứ.
Lục
Ðạo gồm có : Thiên, Nhân, Atula, ngạ qủy, súc sinh, địa
ngục (xếp theo mức độ từ sướng tới khổ).
Thiên : cảnh giới của loài "thiên thần" tốt lành,
vô hình đối với con người, vì mang thân xác vi tế hơn
con người, sống trong những điều kiện dễ dàng hạnh phúc
hơn, đời sống cũng lâu dài hơn con người rất nhiều.
Nhân : cảnh giới của con người, điều kiện sống khó
khăn hơn, nhưng lại là cảnh giới thuận tiện nhất để
tu giải thoát, nhờ có sự quân bình tương đối giữa sướng
và khổ.
Atula : cảnh giới của một loài "thiên thần " (cũng vô
hình dưới mắt con người tương tự những sinh linh trong
cảnh thiên, nhưng họ phải chịu nhiều đau khổ) xấu, là những sinh linh nhiều tham
vọng, ham quyền lực, kiêu căng, ghen
ghét, ganh tị…nên thường xuyên có chiến tranh, và những
đau khổ thiên về thiên thần.
Ngạ Quỷ: (nghĩa là qủy đói) cảnh giới của những sinh
linh tham lam vật chất, của cải, tiền bạc, lạc thú vật chất
như ăn uống, nhục dục …(cũng vô hình dưới mắt con người).
Lúc nào họ cũng khao khát những thứ đó mà không bao
giờ được thỏa mãn, khiến họ luôn khổ đau.
Súc sinh : cảnh giới của loài vật mà chúng ta vẫn thấy:
thú vật , chim chóc, cá… Ít hiểu biết, kém ý thức. Ðời sống thấp
kém, hầu như
không có đời sống tinh thần. Thường xuyên sống trong sợ
hãi có thể bị thúi khác hoặc bị người giết ăn thịt,
hoặc
có thể bị thúc đẩy đi giết các thú khác. Tất cả đều
sợ đói.
Ðịa ngục : cảnh giới của những sinh linh độc ác, (cũng
vô hình dưới mắt con người) hận thù, ích kỷ, ghen
ghét, hay
giận dữ, hay gây đau khổ cho người khác. Họ phải chịu
những cực hình rất đau đớn, khắc nghiệt. Ðời sống
trong các địa ngục dài hay ngắn tuỳ theo từng địa ngục
khác nhau, tuỳ theo sự trầm trọng của điều xấu họ đã
làm.
Tất cả các cảnh giới trên đều bị chi phối bởi luật
vô thường, nên không có ai cứ được hay phải ở mãi
trong một cảnh giới nào, vì không có một điều phúc
đức nào vô cùng để đáng thưởng đời đời, mà cũng
không có một tội ác nào vô cùng để đáng bị phạt
đời đời cả. Do đó, sinh linh cứ tái sinh, cứ bị trôi
lăn trong lục đạo đó mãi. Chỉ có những con người biết
tu tập trí tuệ để giác ngộ được con đường giải
thoát mới ra khỏi cái vòng lẩn quẩn đó.
Trong Lục Ðạo, chỉ có hai cảnh giới được coi là
sướng, là
cảnh giới Thiên vàNhân , nhưng cảnh giới Nhân là qúy
hơn cả. Xét về hạnh phúc thì cảnh giới Thiên có nhiều
điều kiện thuận lợi hơn, nhưng chính vì thế, mà họ bị
ru ngủ không muốn đi tìm sự giải thoát thật sự, để
rồi khi họ hưởng hết phúc lành, họ lại rơi vào một
cảnh giới khổ hơn. Các Atula thì tâm trí bị thu hút vào
việc tranh cãi và hơn thua. Các Ngạ qủy thì quan tâm đến
những thèm khát không được thỏa mãn. Súc sinh thì u
mê chỉ nghĩ đến thức ăn và thoả mãn tính dục. Còn
sinh linh ở địa ngục thì bị hình khổ đủ cách, nên không
có đầu óc đâu mà nghĩ đến Ðạo giải thoát. Chỉ có
con người sướng khổ tương đối quân bình, nên có nhiều
điều kiện thuận lợi để phát tâm đi tìm con đường
giải thoát. Chỉ có con người là có nhiều tự do quyết
định hơn cả, có đầu óc sáng suốt hơn cả, để có thể
đạt tới trí tuệ giải thoát. Nên trong Lục Ðạo, chỉ có
con người là có nhiều cơ may,nhiều khả năng để thành
Phật nhất. Do đó theo Ðức Phật, được làm người là
cả một cơ hội quí báu không nên uổng phí (kinh Duy Ma Cật,
Phẩm Phật Ðạo, Phẩm 8 nói rõ điều đó).
VIỆC ÐỘ VONG
Trong Phật giáo, không có quan niệm về một Ðấng Sáng
Tạo, điều
khiển và chi phối mọi sự. Tất cả đều xảy ra theo quy
luật của vũ trụ. Một người bị rơi vào địa ngục hay đầu
thai vào cảnh giới nào hoàn toàn không do một Ðấng Tối
Cao nào phán xét và định đoạt cả. Cũng y như một người
xử dụng dao không khéo bị đứt tay, hay một người ích
kỷ bị mọi người ghét, một người vui vẻ được nhiều
người thương. Ðó là luật Nhân Quả tác động một
cách khách quan như bao định luật khác.Việc độ vong cũng chỉ dựa
vào luật nhân quả mà cứu, chứ không cầu khẩn ai
được cả. Cũng như muốn cứu một người bị điện
giật, bị
bệnh ung thư… điều quan trọng là có biết cách cứu hay
không, có biết những định luật về điện hay về bệnh tật
hay không. Ðịnh luật có nhiều thứ, vật lý, tâm lý,s
iêu
vật lý, siêu tâm lý…
Quan niệm của người Phật tử về việc độ vong căn cứ
trên câu chuyện trong kinh Vu Lan: Mục Kiều Liên được
Ðức Phật chỉ dạy cách cứu mẹ mình –là bà Thanh Ðề-
thoát khỏi kiếp Ngạ qủy. Phật dạy ông mới những vị
cao tăng vừa "an cư kiết hạ" (An cư kiết hạ: là thời
gian Phật quy định cho chư tăng ở mỗi địa phương phải hội
về một nơi thuận tiện để chuyên tu mỗi năm, từ 16/4 đến
15/7 âm lịch. Tương tự như tĩnh tâm, cấm phòng hay linh thao
bên Kitô giáo). Suốt ba tháng xong, tới chú nguyện để
vong linh mẹ ông chuyển tâm địa độc ác thành tâm địa
lành, nhờ đó mà thoát khỏi kiếp Ngạ quỷ, sinh vào cảnh
giới hạnh phúc hơn.
Trong việc cứu bà Thanh Ðề, mẹ của Mục Kiều Liên,
Phật
đã áp dụng tới sức mạnh của sự chú nguyện (chú
nguyện : chú là chú ý, tập trung tư tưởng, hay năng lực
tinh thần và coi việc gì; nguyện là cầu mong, ước muốn)
khác với cầu nguyện bên Kitô giáo, chú nguyện là tập
trung hết năng lực tinh thần của mình để ước muốn điều
gì, năng lực được tập trung lại đó nếu dù có thể
làm biến chuyển, thay đổi tình thế. Ðây là vấn đề sức
mạnh của tư tưởng mà các nhà tâm lý học hiện đại
đều công nhận), của rất nhiều nguời có năng lực
tinh thần rất mạnh (các cao tăng sau thời gian tinh tấn tu
hành – ba tháng "linh thao") để tác động vào bản thân
của bà Thanh Ðề khiến bà thay đổi tâm địa (từ tâm
ích kỷ bủn xỉn độc ác, thành tâm vị tha quảng đại từ
bi). Tâm thay đổi thì sướng khổ cũng thay đổi theo như
câu :"Tội tuỳ tâm sinh,tội tùng tâm diệt" hay "khổ
tuỳ tâm sinh, khổ tùng tâm diệt". Nhờ vậy bà thoát
khỏi cảnh giới ngạ quỷ, sinh vào cảnh giới lành,
không
có sự can thiệp của thần linh nào vào đây cả.
Lễ Vu Lan cũng như tháng 7 âm lịch là dịp để cho người
Phật tử đặïc biệt làm công việc cứu độ ấy bằng
sự chú nguyện, không những cho cha mẹ ông bà tổ tiên
mình mà còn cho nhiều người khác nữa.
SỰ ÐỒNG DỊ GIỮA HAI QUAN NIỆM
NHỮNG ÐIỂM TƯƠNG ÐỒNG:
- Ðiểm căn bản nhất là cả hai tôn giáo đều cho rằng
các tín đồ còn sống đều có thể cứu độ những vong
linh quá cố.
- Những đau khổ sau khi chết đều là kết quả của những
việc làm sai trái, không hoàn hảo của đương sự khi còn
sống.Vì điều thiện sinh quả lành là hạnh phúc, điều dữ
sinh quả dữ là đau khổ.
- Mỗi năm, cả hai tôn giáo đều có một ngày lễ đặc
biệt để tưởng nhớ và cưu độ người quá cố, thậm
chí dành ra cả tháng để làm công việc này.Việc cầu
nguyện của Kitô hữu hay việc chú nguyện của Phật tử
để độ vong có hữu hiệu hay không thì tuỳ thuộc vào
lòng thành tâm, sự trong sạch, thánh thiện hay mức độ
tu luyện tâm linh của tín hữu còn sống.Và nhiều người
cùng hợp nhau cầu nguyện hay chú nguyện thì việc độ
vong có kết quả hơn.
- Việc độ vong trong cả hai tôn giáo đều được coi là
bổn phận của những người còn sống, để tỏ lòng thảo
hiếu đối với ông bà cha mẹ cũng như cửu huyền thất
tổ, để tỏ lòng biết ơn đối với các ân nhân, và lòng
từ bi bác ái đối với những vong linh khác, nhất là những
vong linh không nơi nương tựa.
NHỮNG ÐIỂM DỊ BIỆT.
- Theo Phật giáo,mọi việc lành dữ của con người đều
gây ra những hậu quả tốt xấu theo quy luật nhân quả,
không
có ai xét xử hay luận phạt cả. Còn theo Kitô giáo,
Thiên
Chúa là Ðấng xét xử mọi việc làm và thưởng phạt
công bằng. Như thế, một đằng chỉ có quy luật nhân-duyên-quả
tác động một cách thích hợp, một đằng là có Ðấng
cầm cân nảy mực.
- Kitô giáo quan niệm chỉ có hai "đời": đời này và
đời đời (vĩnh cửu). Ðối với những người tốt lành
nhưng chưa hoàn hảo thì còn một giai đoạn trung gian để
chịu những đau khổ thanh luyện. Việc độ vong chỉ nhằm đối
tượng là những người này, chứ không độ vong cho những
người đã hưởng mặt Chúa, hay vĩnh viễn phải xa lìa Chúa.
Còn Phật giáo quan niệm có vô số kiếp liên tục tiếp
theo nhau, có giai đoạn trung gian thân trung ấm. Trừ những
người tu giải thoát hay thành Phật, tất cả mọi người
đều phải đầu thai lại vào một trong 6 nẻo của Lục Ðạo.
Việc độ vong chỉ nhắm tới những người đang đau khổ từ
kiếp người trở xuống. Không có một sinh linh nào đáng
thất vọng vì bị hư mất đời đời đến nỗi không độ
vong được.
- Việc độ vong của Phật giáo là dùng sức mạnh tinh thần
của việc chú nguyện để ảnh hưởng trực tiếp tới
tâm địa của những người đang bị đau khổ trong kiếp sau
của họ, hầu trợ thêm sức lực tâm linh cho họ dể họ
thay đổi tâm địa từ xấu thành tốt. Nhờ vậy họ thay
đổi được số phận như vậy cũng là áp dụng những
định luật tâm linh vốn tác động một cách phù hợp để
đạt mục đích. Người sống cũng có thể nhớ những người
khác có nhiều năng lực tinh thần hơn – càng đông càn
tốt- để chú nguyện thay cho mình. Những người khác đó
có thể là những người đang cùng sống với mình, mà
cũng có thể là những vị Phật hay Bồ Tát hoặc đang
ở một cõi nào đó hoặc đang hiện thân làm người đồng
thời với mình.Việc cầu siêu chính là nhờ những thể
lực chú nguyện của các bậc chân chính tu hành cùng sự
hộ niệm của tín đồ thành tâm cầu xin chư Phật, Bồ Tát
gia hộ.
- Còn người Kitô hữu dùng lời cầu nguyện, những việc
đạo đức, những việc thiện,sụ hy sinh hãm mình và nhất
là dâng thánh lễ hay xin lễ để cầu xin Thiên Chúa (hoặc
gián tiếp nhờ các Thánh cầu bầu cùng Chúa). Thiên Chúa
sẽ tác động tới các linh hồn đang thanh luyện cách nào
đó để họ vẫn trở nên hoàn hảo xứng đáng hưởng
hạnh phúc bên Thiên Chúa, nhưng được giảm phần đau khổ
do thanh luyện. Mọi sự đều hoàn toàn tuỳ thuộc vào tinh
thương của Thiên Chúa, chứ không theo định luật tự nhiên
nào tác động cách máy móc cả. Người sống không thể
tác động trực tiếp tới các linh hồn được.
ÁP DỤNG MỤC VỤ
Lễ Vu Lan của Phật giáo đã ảnh hưởng sâu rộng trong
quần chúng (kể cả ngoài Phật giáo), đã đi sâu vào tâm
thức của dân tộc góp phần tài bồi văn hóa VN. Vì
thế, người
Kitô hữu VN nên coi lễ Vu Lan như một nét văn hóa, một
phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, và nên áp dụng
tinh thần tốt đẹp của phong tục này. Chúng ta vừa là người
trong Giáo Hội, vừa là thành phần của dân tộc VN, nếu
đã sentire cum Ecclesia(cảm thông cùng Giáo Hội) thì cũng
nên sentire cum Patria (cảm thông cùng dân tộc mình). Xin gợi
ra một vài điểm sau đây để cùng suy nghĩ:
1. Ðang khi đa số dân tộc ta dành ra tháng 7 âm lịch mỗi
năm để tưởng nhớ tới ông bà tổ tiên và những
người đã quá cố, chúng ta cũng nên cùng làm điều đó
với họ theo cách thức của người Kitô hữu chúng ta.
Thực ra, Giáo Hội cũng dành ra cả tháng 11 để mọi người
Kitô hữu trên thế giới làm việc đó. Nhưng rất tiếc
hai thời gian đó không trùng với nhau. Vì thế, trong tinh
thần hoà mình với dân tộc chúng ta nên làm việc đó
hai lần trong năm: một lần cùng với Giáo Hội, một lần
cùng với dân tộc mình. Những người thân đã quá cố
của chúng ta hẳn sẽ ủng hộ điều này.
2. Ðể hoà mình hơn nữa với dân tộc, chúng ta có thể
làm bàn thờ gia tiên trong nhà của mình. Hình thức thế
nào thì tuỳ theo sáng kiến của từng gia đình. Có thể làm
bàn thờ gia tiên ngay dưới bàn thờ Chúa, để khi hướng
về bàn thờ cầu nguyện thì cũng nhìn thấy những biểu
tượng (như hình ảnh,kỷ vật…) của người quá cố để
tưởng nhớ và cầu nguyện cho họ. Miễn sao đừng để bàn
thờ gia tiên nổi bật hơn bàn thờ Chúa. Luôn luôn phải
nhớ nguyên tắc: Chúa thì thờ, tổ tiên thì kính nhớ.
Có
thể dùng nhang, bông hoa, trái cây, đèn làm biểu tượng
cụ thể của lòng thành kính (đương nhiên không phải để
vong linh người chết ngửi hương hay ăn uống gì, đó chỉ
là hình thức văn hóa để tỏ lòng kính nhớ. Thời Cựu
ước ,dân Do Thái sát tế chiên bò đâu phải để cho
Thiên Chúa ăn, đó chỉ là hình thức tôn giáo để biểu
lộ sự thuần phục đối với chủ tể tối cao của mình).
3. Mỗi gia đình đều có tổ tiên để kính nhớ, thì cả
dân tộc cũng thế. Tổ tiên của dân tộc VN là các vua
Hùng Vương, được cả nước làm giỗ vào ngày 10.3 âm
lịch mỗi năm, bằng một lễ hội trọng thể tại các
đình. Thiết
tưởng chúng ta cũng nên tưởng nhớ và cầu nguyện cho
tổ tiên của cả dân tộc mình trong ngày đó, cụ thể
trong thánh lễ đúng ngày. Chẳng lẽ chúng ta chỉ dành việc
cúng giỗ tổ tiên dân tộc cho những anh em tôn giáo khác
làm thế mình.
4. Nếu mỗi gia đình đều nên có một bàn thờ gia tiên,
thì
tại một số nhà thờ lớn mang tính cách quốc gia hay thành
phố lớn, nên có một bàn thờ kính nhớ tổ tiên của
cả dân tộc mình ở một chỗ nào đó thuận tiện và thích
hợp. Cần phải khuyến khích tin h thần thảo kính đối với
tổ tiên của cả nước, có như thế mới tạo nên tinh
thần dân tộc, gợi lên lòng yêu nuớc thương nòi,
bày
tỏ lòng biết ơn tiền nhân. Ðiều đó chẳng hợp với
tinh thần thư chung 1980 của HÐGMVN sao?
5. Trong tâm tình tri ân đối với tổ quốc, chúng ta cũng
không nên quên những vị anh hùng dân tộc trong quá khứ
đã viết nên trang sử oai hùng cho đất nước, và biết
bao chiến sĩ khác đã đổ máu ra để bảo vệ quê hương
xứ sở này, cho ta được sống yên vui, ấm no, hạnh
phúc. Chúng
ta có bổn phận nhớ ơn và cầu nguyện cho họ, đặc biệt
trong tháng các linh hồn mỗi năm.
|