Ảnh hưởng của chân phước John Henry Newman trên Đức Bênêđíctô
XVI
Từ ngày 16 đến ngày 19.9.2010, ĐTC Bênêđíctô XVI sẽ chính thức
viếng thăm Vương Quốc Anh. Và cao điểm của chuyến tông du lịch
sử này là lễ phong chân phước cho ĐHY John Henry Newman (1801-1890).
ĐHY John Henry Newman là một trong những nhà thần học nổi tiếng và
tân tiến nhất của Giáo Hội Công Giáo Anh vào lúc bấy giờ, vì
thế ngài đã đóng một vai trò quyết định trong sự phát huy tư
tưởng thần học của nhà thần học trẻ Joseph Ratzinger. Dĩ nhiên,
bên cạnh HY Newman, còn có nhà thần học người Pháp Henri de Lubac
SJ cũng đóng một vai trò không nhỏ trong tư tưởng J. Ratzinger.
Năm 1947, khi sinh viên Joseph Ratzinger bắt đầu theo học thần học,
thì Alfred Läpple – người vừa được quân đội Anh trả tự do và
là người hướng dẫn chương trình học của Joseph Ratzinger và các
chủng sinh khác – vừa hoàn thành xong luận án tiến sĩ về đề
tài „Quan niệm của Newman về lương tâm“. Läpple đã hướng
dẫn J. Ratzinger và nhóm chủng sinh tiếp cận với tư tưởng thần
học của HY John Henry Newman. Từ đó, ảnh hưởng của nhà thần
học người Anh này đã chiếm dần một vị trí rất quan trọng trên
sự phát triển tư tưởng thần học của sinh viên Joseph Ratzinger,
của HY Jeseph Ratzinger und ngày nay của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô
XVI.
Lương tâm là chiếc chìa khóa
Chủ đề cuộc Tông du Vương Quốc Anh của Đức Bênêđíctô được
chọn theo câu khẩu hiệu của J.H. Newman: „Cor ad cor loquitur“:
Con tim nói với con tim hay những cõi lòng cùng tâm sự với nhau.
Theo kiểu nói của Thánh Kinh, thì từ „trái tim“ hay „lòng“
có thể đồng nghĩa với khả năng phân biệt tốt/xấu, phải/trái
của con người mà người ta gọi là lương tri hay lương tâm. Theo
thiển ý, tôi nghĩ rằng câu khẩu hiệu „Cor ad cor loquitur“
còn mang nhiều ý nghĩa khác nữa, chẳng hạn: người cha nói với
con mình; Thiên Chúa nói với loài người; Thánh Tâm Chúa Giê-su nói
với con tim loài người; Tôi nói với anh; Lương tâm nói với lương
tâm. Nói tóm lại, câu khẩu hiệu muốn nói rằng lương tâm ĐTC Bênêđíctô
nói với con tim của tất cả các tin hữu và với tất cả mọi người
thiện tâm, khi lương tâm của Đức Thánh Cha được Chúa Thánh
Linh hướng dẫn, vì chính ngài thực thi sứ mệnh Giáo Hoàng của
mình trong Chúa Thánh Linh.
Chúng ta biết rằng „lương tâm“ là một trong những
chiếc chìa khóa quan trọng để có thể hiểu được cuộc sống và
tư tưởng thần học của Gs. Joseph Ratzinger. Vì ngài là một người
chỉ hành động theo lương tâm, và điều đó muốn nói rằng ngài
là một người có được một đức can đảm nội tâm rất mạnh
mẽ, luôn biết dũng cảm nói lên sự thật, chứ không chút sợ
sệt trước bất cứ hậu quả nào, dù cho sự thật ấy có làm người
nghe hài lòng hay phật ý, kể cả sự thù địch, và không chỉ trên
các phương tiện truyền thông đại chúng. Quan điểm của ngài
về vai trò trọng yếu của lương tâm trong sứ mệnh tìm kiếm
sự thật và sự ngay chính – và qua đó, cả sự tìm kiếm một
trật tự xã hội – là trung tâm điểm những ưu tư thần học
của ngài. Do đó, nếu khi Gs. Joseph Ratzinger viết về đề tài lương
tâm, về bản chất và sự tác động của lương tâm, ngài luôn
nỗ lực tái khám phá ra ý nghĩa nguyên thủy của điều mà ĐHY
Newman đã trình bày một cách hết sức rõ ràng và dứt khoát.
Trong thế giới tân tiến và tục hóa ngày nay, hạn từ „lương
tâm“ đã bị biến dạng quá nhiều, đến nỗi nó chỉ còn
được coi như là sự „cảm hứng cá nhân“, chứ không còn là
động lực cơ bản hướng dẫn mọi suy tư và mọi hoạt động
của con người nữa. Hiện tượng này chắc chắn sẽ dẫn tới
sự độc đoán khó tránh của chủ nghĩa tương đối về luân lý.
Đây là điểm mà ĐHY niên trưởng Joseph Ratzinger đã phát biểu
trong bài giảng của ngài trong Cơ Mật Viện các Đức Hồng Y trước
khi ngài được bầu làm Giáo Hoàng vào năm 2005. Điều đó cũng
muốn nói rằng qua bài giảng của vị Hồng Y niên trưởng của mình,
các Đức Hồng Y trong Cơ Mật Viện lúc bấy giờ đã được nghe
những suy tư về tư tưởng của ĐHY Henry Newman. Tại sao?
Chúng ta biết rằng, ĐHY John Henry Newman đã suốt đời can đảm
tranh đấu chống lại chủ nghĩa tự do và những ảnh hưởng vô
luân đầy nguy hiểm của nó. Đó là hiện tượng người ta đã
chứng kiến khi những người bạo loạn trong Giáo Hội (Giáo sĩ cũng
như giáo dân) thời hậu Công Đồng Vatican II ở Vương Quốc Anh cũng
như ở nhiều nơi trên thế giới đã sử dụng chủ nghĩa tự do
như một lớp vỏ hấp dẫn để đòi hỏi một thứ tự do lương
tâm tuyệt đối, hầu họ có thể biện minh cho sự loại bỏ các
giáo huấn của Giáo Hội và truyền bá một thứ thần học tôn giáo
mang tính cách đa phức, nghĩa là đối với những người này thì
mọi tôn giáo đều ngang hàng và đồng hóa với nhau, chỉ khác
nhau ở chỗ là mỗi tôn giáo trình bày chân lý theo cách thức chuyên
biệt riêng của mình mà thôi.
Vào năm 1879, khi ngài được trao mũ Hồng Y, Đức Henry Newman đã
khẳng định: „Chủ nghĩa tự do trong tôn giáo là một học
thuyết chủ trương hoàn toàn không có chân lý tôn giáo, quá lắm
chỉ có một sự tuyên tín như như bao sự tuyên tín khác mà thôi.“
Như vậy, trên thực tế chủ nghĩa tự do là sự phủ nhận lương
tâm không phải là khả năng, mà nhờ đó con người theo một nghĩa
nào đó, có thể nhận thức được chân lý tuyệt đối. Dĩ nhiên,
sự nhận thức được chân lý tuyệt đối qua lương tâm như thế
cũng chỉ tương tự như khi người ta nhìn thấy một sự vật qua
một lớp kính, chứ hoàn toàn không rõ ràng như khi người ta cầm
sự vật ấy trong tay một cách thực tiễn. Điều đó muốn nói
rằng để nhận thức được chân lý tuyệt đối một cách chắc
chắn và chính xác, con người phải cần đến sự can thiệp của
uy quyền siêu nhiên của Thiên Chúa, điều mà chủ nghĩa tự do
phủ nhận.
Sự phê bình sắc bén của ĐHY Newman đối với chủ nghĩa tự do
sẽ là điểm tựa cho sự nghiên cứu riêng của Đức Bênêđíctô
XVI về bộ mặt tân thời của chủ nghĩa tự do ngày nay, một
chủ nghĩa đã gây nên bao đổ vỡ mất mát trong Giáo Hội cũng như
trong xã hội, đó chính là chủ nghĩa tương đối hóa mọi luân lý
cổ truyền. Ở đây, một điểm đáng ghi nhận là khi còn là
Hồng Y, Đức Bênêđíctô đã có được những gợi ý của nhà
thần học giáo dân nổi tiếng người Anh trong những phê bình
của ngài đối với chủ nghĩa tự do luân lý, đó là tiến sĩ
C.S. Lewis.
Ngày nay, Vương Quốc Anh là một xã hội đa văn hóa và đang chịu
ảnh hưởng mỗi ngày một thêm trầm trọng của ý thức hệ thế
tục, một ý thức hệ đang tìm mọi cách để dồn đẩy vấn đề
tôn giáo nói chung vào phạm vi cá nhân, và nhất là trục xuất
tất cả mọi ảnh hưởng Kitô giáo ra khỏi phạm vi công cộng,
hầu có thể biện minh cho việc bảo đảm sự trật tự công
cộng bằng những giá trị duy vật của mình. Và hiện tượng
thế tục cực đoan này có thể đưa tới hai hậu quả khủng
khiếp sau, đó là:
1) Tạo nên một khoảng trống thiếu vắng Thiên Chúa trong cuộc
sống con người. Và để lấp đầy khoảng trống đó, hay nói cách
khác, để chạy trốn thực tại vô nghĩa và trống rỗng, con người
tìm kiếm sự an ủi nơi sự thỏa mãn nhục dục, nơi bạo lực và
nơi các loại ma túy, trong đó kể cả sự tự tử hay giết hại
người khác như một thú vui.
2) Và hậu quả thứ hai là để phản ngược lại quan niệm tôn giáo
trước kia, họ chủ trương một thứ tôn giáo mới và hoàn toàn
quá khích.
Đó là những hậu quả tất yếu. Bởi vì, một khi người ta
loại trừ Thiên Chúa ra khỏi sự ý thức công cộng trong xã hội,
thì chân lý, sự ngay chính và sự trung tín sẽ bị vùi lấp, con
người sẽ mất hết nhân phẩm và niềm vui chân thật của mình,
những điều mà theo kế hoạch của Thiên Chúa, ai ai cũng đều
cảm nhận được trong tận đáy lòng mình.
Sự chối bó Thiên Chúa trên lý thuyết cũng như trong thực hành
sẽ đưa dẫn tới một thế giới hoàn toàn thế tục, tức một
thế giới tự cho mình là hoàn hảo tuyệt đối, vào trong sự
chống đối không cần thiết ngược lại với đức tin. Đồng
thời nó cũng đưa dẫn con người đến chỗ phủ nhận chân lý khách
quan, và qua đó nó lại dẫn con người tới chủ nghĩa tương đối
thuộc lãnh vực luân lý. Đó là hiện tượng đã gây nên những
ảnh hưởng không nhỏ trên một số đông các nhà trí thức ngày
nay và ngay cả trên một số nhà thần học, những người cho
rằng tất cả các tôn giáo trên thế giới, nhiều hay ít, đều là
những nẻo đường chân chính có thể dẫn đưa người ta đến cùng
Thiên Chúa và sự cứu rỗi. Một sự khoan dung lệch lạc như
thế, thì một phần nào đó có thể được coi là một phản ứng
chống lại sự hiểu lầm rất phổ biến trước Công Đồng về tín
điều cho rằng ngoài Giáo Hội không có sự cứu rỗi. Ngoài ra,
theo một phần nào đó, thì sự khoan dung đó là một sự diễn
giải sai lạc các giáo lý của Công Đồng Vatican II về tương quan
với các tôn giáo khác ngoài Giáo Hội Công Giáo – mặc dù sự
diễn giải ấy được một người yêu thích – khi cho rằng ý
niệm sai lạc „Kitô giáo nặc danh“ (anonymes Christentum)
của Karl Rahner là của chính Công Đồng.
Cả hai hậu quả trên chắc chắn sẽ dẫn tới một „chủ nghĩa
tự do trong tôn giáo“, một điều mà ĐHY Newman đã từng nghiêm
ngặt lên án. Nhưng trong nền văn hóa ngày nay với sự ngự trị
của chủ nghĩa tương đối hóa luân lý, thì chủ nghĩa tự do ấy
lại đang bùng tái phát và sống động trở lại hơn bao giờ
hết. Và từ chỗ đó phát xuất một hậu quả tai hại khó tránh
là làm tê liệt tinh thần truyền giáo, trong khi chính xã hội bị
tục hóa, vật chất hóa và vô thần hóa ngày nay đang cần được
Phúc Âm hóa hơn bao giờ hết.
Bởi vậy, trọng điểm của chuyến tông du của ĐTC Bênêđíctô
XVI lần này tại Vương Quốc Anh phải là giúp các tín hữu Công
Giáo, Anh Giáo cũng như những người thiện tâm tại Anh Quốc tái
khám phá ra tinh thần hăng say truyền giáo ngay giữa đất nước
họ. Để đạt tới trọng điểm này, có lẽ người ta đang chờ
đợi nơi Đức Thanh Cha hai đường hướng, đó là:
1) Qua sứ điệp mà ngài sẽ mang đến cho dân tộc Anh với nội
dung là chính xã hội tân tiến ngày càng cần phải giữ vững đức
tin vào Đức Giê-su Kitô, Đấng vừa là Thiên Chúa thật vừa là
người thật, và chíng Người là Đấng duy nhất mang đến cho con
người cũng như xã hội nhân loại sự giải thoát, sự cứu rỗi
toàn diện.
2) Lễ nghi cử hành Phụng vụ của Giáo Hội là nguồn thực tiễn
của sự giải thoát và niềm vui mừng nội tâm, được phát sinh
qua sự gặp gỡ với Đức Kitô trong các phép Bí Tích.
Bên cạnh đó, các truyền thống phong phú Anh Quốc còn chứa đựng
những giá trị nhân bản gương mẫu cho cả thế giới, chẳng
hạn: Nền dân chủ lâu đời nhất thế giới của người Anh
(Westminster là mẹ của các viện quốc hội trên thế giới), phong
trào cải cách tư tưởng Tô Cách Lan (bắc Anh), cuộc cách mạng
kỹ nghệ, v.v… Nhưng ngày nay, tất cả những giá trị chân chính
đó của Anh Quốc đang phải đối mặt với sự đe dọa đầy nguy
hiểm của chủ nghĩa tục hóa vô thần và chủ nghĩa tương đối
hóa luân lý. Những hiện tượng ấy muốn nói lên điều gì?
Nền dân chủ chân chính cần tới lương tâm và sự tranh luận
Thật vậy, lương tâm và sự tranh luận là nguồn sống của một
nền dân chủ chân chính cũng như của sự tìm kiếm sự công
bằng. Cả hai cùng đặt cơ sở trên sự nhận thức được rằng
trong xã hội con người có hai thực tại: cái sai khách quan và cái
đúng khách quan. Trong những thập niên vừa qua, có lẽ người ta cũng
đã nhận chân được hiện tượng phủ nhận cái đúng khách quan
và không còn phân biệt được cái sai, nên đã dẫn tới điều mà
Đức Gioan Phaolô II đã gọi là „văn hóa sự chết“. Và trong lãnh
vực này với những gì tiêu cực từng xảy ra trong xã hội Anh, người
ta có thể nói được rằng Anh Quốc là nước dẫn đầu.
Cuộc hội nghị tối cao của các Giám Mục Anh Giáo năm 1930 tại
Lambeth đã đi đến sự nhất trí là sự dựa theo truyền thống
Kitô giáo nói chung, việc ngừa thai theo phương pháp nhân tạo là
hoàn toàn nghiêm cấm. Thế nhưng ngày nay, ngoài Giáo Hội Công giáo
và Chính Thống ra, hầu như tất cả các cộng đồng Kitô giáo khác,
trong số đó có cả Anh Giáo, đã cho phép các phương pháp ngừa
thai nhân tạo. Và một khi việc ngừa thai nhân tạo đã được phép,
thì việc đồng ý cho những người cùng đồng phái tính được
phép luyến ái với nhau phải được coi là hậu quả tất yếu, như
một cựu Tổng Giám Mục Canterbury (Anh Giáo) đã ghi nhận và dĩ
nhiên chính ngài cũng đồng ý như vậy. Và cách đây chưa lâu, chính
Đức TGM Rowan William (Anh Giáo) cũng đã tuyên bố một lập trường
tương tự. Vào năm 1967, khi những cuộc phá thai „trong những
trường hợp ngoại thường“ được cho phép, thì người ta đã
cố tình bỏ qua không nói đến sự bất công cố hữu trong những
trường hợp phá thai ấy và họ vẫn theo nguyên tắc để cho phép
những cuộc phá thai đều đặn xảy ra. Và từ thái độ ấy, người
ta đã tiến tới chỗ coi việc phá thai là một „quyền lợi“ như
ta thấy ngày nay. Nhưng sự việc chưa dừng tại đó. Ngày nay người
ta còn tìm cách hợp thức hóa những khảo nghiệm nguy hiểm trên các
thai nhi, như việc nghiên cứu các tế bào sống để tạo nên con
người hoàn toàn trong ống nghiệm, những hành động mà nền đạo
đức luân lý chân chính của xã hội loài không thể chấp nhận
được.
Thay vào đó, người ta đã trưng dẫn một mình sự ích lợi thực
tiễn như là lý do đủ cho hành động của họ, tức để giúp cho
những cặp vợ chồng hiếm muộn có thể có con, trong khi đó họ
hoàn toàn không cần quan tâm tới những tính chất phản luân lý
của hành động mình làm. Và đương nhiên, nếu có ai đưa ra
những chống đối (thường là phát xuất từ những tín hữu Công
Giáo chân chính), thì được coi như là một kẻ „quá bức xúc
nóng nảy“ và phản ứng không hợp lý. Qua lá phiếu thuận
của mình trong dự thảo hiến pháp hợp thức hóa việc phá thai,
một số dân biểu đã loại bỏ Donum vitae, những giáo huấn của
Tòa Thánh về đạo đức sinh học mà trước đây Đức HY Tổng trưởng
thánh bộ Đức Tin Joseph Razinger đã cho công bố. Dĩ nhiên, trong
vấn đề này Đức Bênêđíctô sẽ khó lòng nhận được sự đồng
thuận của đa số các khán thính giả Anh.
Nhưng đàng khác, còn có những yếu tố văn hóa thầm kín khác
sẽ gây nên những ảnh hưởng nhất định trong việc đón tiếp
Đức Thánh Cha, mà rõ ràng nhất là thành kiến truyền thống đối
với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô vốn tồn tại tại Anh Quốc từ xưa
nay. Một thánh đố cơ bản mang tính cách văn hóa, mà những người
Anh và những người Tô Cách Lan có chung là não trạng chống đối
Giáo Hội Công Giáo, nhưng phần lớn chỉ là những suy tư và
những hành động nông cạn trên mặt mà thôi. Tuy nhiên, những tư
duy và hành động nông cạn ấy cũng không ít nguy hiểm, đến
nỗi nhiều khi đã gây nên sự bùng nổ thái quá tại Anh Quốc trước
một phát biểu hay một sắc lệnh nào đó phát đi từ Vatican.
Tuy nhiên, thái độ chống đối Giáo Hội Công Giáo ở Anh Quốc và
ở Tô Cách Lan không giống nhau. Nói chung, ở Tô Cách Lan thái độ
bài Công Giáo phát xuất từ sự xác tín mang nặng tính cách tôn
giáo, trong khi đó thái độ ấy ở Anh Quốc lại mang màu sắc chính
trị nhiều hơn. Bởi vậy, bình thường thì Đức Thánh Cha sẽ thăm
viếng Tô Các Lan trước, một nơi người Công giáo được coi là
một thiểu số quan trọng, và tiếp đến là nơi Đức Thánh Cha
sẽ gặp nữ hoàng Elisabeth tại dinh của nữ hoàng thuộc Tô Cách
Lan.
Tuy chuyến tông du của Đức Thánh Cha ở cả hai nước (Anh Quốc và
Tô Cách Lan) còn mang tính cách một cuộc viếng thăm cấp nhà nước
hơn – chứ không chỉ là một cuộc tông du hoàn toàn mang tính cách
mục vụ bình thường như cuộc tông du trước đây 30 năm của Đức
Gioan Phalô II – nhưng nó cũng vẫn mang một ý nghĩa mục vụ rất
quan trọng. Đặc biệt, tại Tô Cách Lan, sự hiện diện của Đức
Thánh Cha còn mang một tính cách nhân bản khác nữa. Chúng ta biết
rằng, trước đây giáo sư Joseph Ratzinger đã có mối tương giao
rất thân hữu với một số rất lớn các nhà thần học thuộc phái
Tin Lành Calvin ở Tô Cách Lan, nhất là với nhà thần học Karl
Barth. Thêm vào đó, chính tư cách và sự uyên bác về tri thức
của Đức Thánh Cha đã gây được một sự kính trọng sâu xa ở
miền đất này, cũng sẽ tạo cho cuộc tông du này ở Tô Cách Lan
gặp được nhiều thuận lợi.
Trong khi đó, ở Anh Quốc chuyến tông du của Đức Bênêđíctô
sẽ thuần túy là một chuyến viếng thăm cấp nhà nước với
những màu sắc và hình thức hùng tráng bên ngoài của nó. Nhưng có
lẽ chính điều ấy tô điểm cho sự thành công của chuyên thăm
chăng, vì qua đó sự lo sợ chuyến viếng thăm của một vị Giáo
Hoàng đến từ Roma sẽ làm phai nhạt tinh thần cải cách của
một số người chống đối cuôc tông du này. Chúng ta cũng đã
biết rằng phong trào cải cách, hay nói cách khác, sự thiết lập
Anh Giáo, một Giáo Hội tự trị, đã góp phần làm cho Anh Quốc thành
một cường quốc, luôn trong tư thế cạnh tranh và cả sự tranh
chấp chống lại các vương triều Công Giáo khác ở Âu Châu,
nhất là các vua Pháp và Tây Ban Nha. Vì thế, ngay từ khởi đầu
khi thành lập Giáo Hội tự trị ra khỏi Giáo Hội Roma, các triều
đại tại Vương Quốc Anh luôn nghi ngờ sự trung thành của các tín
hữu Công Giáo Anh dành cho họ, mặc dù các tín hữu Công Giáo Anh
vẫn luôn dè dặt trong việc bày tỏ sự trung thành của họ với
Đức Giáo Hoàng La Mã.
Nhưng đàng khác, với tư cách là một người luôn hành động theo
lương tâm như họ thường biết đến, các tầng lớp dân Anh đang
chờ đón Đức Bênêđíctô XVI như một mẫu gương sáng chói cho
tất cả các nhà lãnh đạo. Họ hy vọng ngài sẽ thức tỉnh được
lương tâm trách nhiệm và đức tin Kitô giáo của các nhà chính
trị và các vị lãnh đạo Anh quốc, theo mẫu gương thánh Thomas
Morus.
Theo chương trình, Đức Thánh Cha sẽ đọc một bài phát biểu quan
trọng tại tòa quốc hội Westminster cổ kính và thời danh, được
xây dựng cách đây trên dưới 900 năm, nơi phát xuất nền dân
chủ Anh quốc và đồng thời cũng là nơi từng xét xử Thomas
Morus, một người đã can đảm hành động theo lương tâm đến hy
sinh mạng sống mình để tranh đấu cho quyền tối thượng của Đấng
Kế vị Thánh Phêrô. Vâng, trước khi bị hành hình, Thomas Morus đã
tuyên bố: „Tôi chết như một tôi trung của đức vua, nhưng trước
hết như một tôi tớ của Thiên Chúa.“ Suốt đời, thánh
Thomas Morus đã tranh đấu cho công lý, và đòi hỏi mọi tranh chấp
trong đời sống xã hội phải được giải quyết một cách công
bằng và hợp lý, và ngài đã chiến thắng được sự cai trị
hống hách và độc đoán của vua Henry VIII cũng như các người
kế vị ông. Ngài đã vạch ra con đường tiến tới một nền dân
chủ tân tiến như ngày nay, một nền dân chủ đặt cơ sở trên
quy chế pháp trị, một nền dân chủ phải được dựa vào sự phân
biệt phải/trái một cách khách quan qua một sự tranh luận tự do
và một cuộc biểu quyết „fine-tuned“, một cuộc biểu quyết lành
mạnh theo tiếng lương tâm của mỗi người.
Ngoài thánh Thomas Morus, còn có một nhân vật nổi danh khác, đó là
Đức HY Reginald Pole, mà tư tưởng thần học của ngài đã có
một ảnh hưởng không nhỏ trên chính Đức Bênêđíctô XVI. Đức
HY Pole là một người bà con họ hàng với vua Henry VIII và là người
đã soạn thảo tư tưởng thần học về ngôi vị Giáo Hoàng ngay
trong Cơ Mật Viện bầu Giáo Hoàng, mà ngài là một trong những
vị nổi bật nhất để được bầu vào ngai tòa Thánh Phêrô. Được
ảnh hưởng bởi kinh nghiệm của các vị tử đạo người Anh,
trong số đó có chính thân mẫu của ngài, Đức HY Pole đã phát
huy nền thần học hết sức đặc biệt của ngài về quyền tối
thượng của ngai tòa Thánh Phêrô qua các Đấng Kế Vị ở Roma.
Theo ý kiến ngài, đối với các Đấng Đại Diện chân chính của
Đức Kitô trong việc hướng dẫn Giáo Hội, ngai tòa Thánh Phêrô
quả thực là một Thánh Giá. Uy quyển của ngai toà này đối với
các quyền lực chính trị trần thế là một quyền lực của sự
yếu kém, một quyền lực bám rễ sâu trong sự tuân phục của đức
Giáo Hoàng đối với Depositum fidei, đối với kho tàng các giá
trị của đức tin, như đã được trao phó cho Giáo Hội gìn giữ
và rao truyền.
Tuy nhiên, trong khi các quyền lực chính trị trần thế được thu
hẹp và được giới hạn lại trong phạm vi quốc gia, thì quyền
lực của Đức Giáo Hoàng mặc dù bất bạo lực và không dùng
sức mạnh quân sự lại bao trùm cả thế giới, bất phân biệt biên
giới các quốc gia, các dân tộc, các nền văn hóa và cả các tôn
giáo. Vâng, quyền lực của Đấng Kế Vị Thánh Phêrô mang tính cách
phổ quát, phổ quát như chính chân lý khách quan vậy, nguồn xuất
phát của quyền lực ấy và đồng thời cũng là điều mà tất
cả các Đấng Kế Vị Thánh Phêrô có sứ mệnh phải rao truyền và
làm nhân chứng. Từ sứ mệnh rao truyền và tranh đấu cho chân lý
ấy, tính cách làm nhân chứng của Đấng Kế Vị Thánh Phêrô đã
trở thành một đối kháng khó tránh khỏi giữa Giáo Hội Công Giáo
và đa số các nhà nước trần thế. Hay nói một cách đơn giản hơn,
Thánh Giá là một thực tại đã tiềm ẩn sẵn trong chức vị
mỗi vị Đức Giáo Hoàng. Và trong hiện tại, Thánh Giá đối với
Đức bênêđíctô XVI không chỉ là một chủ đề mang tính cách
khoa học mà thôi. Cuộc viếng thăm cấp nhà nước của ngài tại
Vương Quốc Anh còn là dịp để trình bày sức mạnh chiến thắng
và sự vinh quang của Thánh Giá trong một xã hội muốn hoàn toàn
chối bỏ Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI là người tìm kiếm sự đối
thoại
Dĩ nhiên điều đó không có nghĩa thái độ của Đức Thánh Cha là
một đối kháng mang tích chất khiêu khích đối với trào lưu tiêu
cực hiện nay tại Anh Quốc, mặc dù những phát biểu và hành động
của ngài có thể gây ra sự hiểu lầm và sự chống đối nào đó.
Bởi vì, suốt cuộc đời, ngài luôn tìm kiếm sự đối thoại chân
thành, cởi mở và thẳng thắn với tất cả mọi người thiện tâm,
và nỗ lực xây dựng các nhịp cầu thông cảm trong sự đối kháng.
Cách đây chưa lâu, trên chuyến bay sang Bồ Đào Nha, Đức Thánh
Cha đã bình luận về hiện tình văn hóa của thế giới Âu châu
ngày nay: „Trong thế kỷ của biện chứng giữa chủ nghĩa thế
tục và đức tin đã luôn có những người vẫn nỗ lực xây nên
các nhịp cầu và tìm cách tạo nên sự đối thoại trong cuộc
sống. Nhưng đáng tiếc là khuynh hướng chống đối và loại trừ
nhau đã dành quyền thống trị. Ngày nay chúng ta nhận thấy rõ là
sự biện chứng ấy cho ta một dịp may là chúng ta phải tìm cho ra
được sự tổng hợp và một sự đối thoại phong phú và sâu xa.
Tất cả chúng ta đang sống trong một xã hội đa văn hóa, và người
ta nhìn thấy được rằng nếu không có chiều kích siêu việt
của tôn giáo, thì một nền văn hóa thuần túy duy lý Âu Châu sẽ
bất lực trong việc đối thoại với những nền văn hóa sâu
rộng khác của nhân loại, là những nền văn hóa có chứa đựng
tất cả chiều kích siêu việt của tôn giáo, tức chiều kích
của bản thể con người.
Là cả một sự sai lầm khi quan niệm rằng chỉ có một lý trí
thuần tuý và đi ngược lại lịch sử, một lý trí chỉ hiện
hữu nội tại trong chính mình. Chúng ta luôn khám phá thêm được
rằng lý trí chỉ mới đụng chạm tới một phần của con người
và chỉ biểu lộ một tình huống lịch sử nhất định, chứ không
phải là lý trí tự nội (die Vernunft an sich). Lý trí tự nội thì
mở ra cho siêu việt tính, và chỉ trong sự gặp gỡ giữa thực
tại siêu việt, đức tin và lý trí, thì con người mới tìm gặp
được chính mình thực sự. Bởi vậy, tôi nghĩ rằng trách nhiệm
và sứ mệnh của Âu Châu trong tình huống này là tìm kiếm sự đối
thoại và điều hợp đức tin và lý tính tân tiến lại trong một
nhãn quan nhân chủng học duy nhất, một nhãn quan bao gồm trọn
vẹn bản thể con người và qua đó tạo điều kiện cho sự
truyền thông giữa các nền văn hóa nhân loại với nhau. Từ chỗ
đó, tôi có thể nói được rằng sự hiện diện của chủ nghĩa
thế tục (Sécularisme) là một điều bình thường, trong khi sự
chia rẽ cũng như sự chống đối nhau giữa văn hóa và đức tin, mà
chủ nghĩa thế tục đã gây ra, lại là một điều không bình thường
và đòi phải được loại bỏ. Những thách đố to lớn ngày nay là
cả hai phía, đức tin và văn hóa, cùng gặp gỡ nhau và qua đó
mỗi bên cùng tìm gặp được căn tính thật sự của mình. Và như
đã nói, đó phải là một sứ mệnh của Âu Châu và là một nhu
cầu cấp bách của con người trong giai đoạn lịch sử ngày nay
của chúng ta.“
Danh từ La-tinh của người bắc cầu là Pontifex (do chữ Pons:
chiếc cầu, và chữ facere: kiến tạo). Nhưng trong chuyến tông du
lần này tại Vương Quốc Anh, ĐTC Bênêđíctô XVI phải can đảm làm
chứng cho chân lý đã giải thoát nhân loại. Dĩ nhiên, ngài cũng
phải bắt tay tất cả mọi người, kể cả những người chống
đối chuyến tông du lịch sử này của ngài. Vì trong mọi tình
huống ngài luôn là Pontifex, là người bắc cầu của Đức Kitô.
Trong lần viếng thăm Vương Quốc Anh lần đầu tiên vào năm 1988,
trong tư cách là Tổng trưởng Thánh Bô Đức Tin, Đức HY giáo sư
Joseph Ratzinger đã công khai trình bày một bài nói chuyện tại đại
học Cambridge về sự nguy hiểm của chủ thuyết hư vô (Nihilisme)
đối với nhân loại hôm nay. Chúng ta biết rằng tại Anh quốc vào
lúc bấy giờ ngài rất ít được yêu chuộng, và người ta đã
từng gọi ngài là „con chó dữ của Thiên Chúa“ hay vị
„Hồng Y xe tăng“. Mặc dù thế, khi ngài bước vào giảng
đường đại học (để tưởng thưởng cho sự can đảm của ngài)
cũng như sau khi ngài chấm dứt bài thuyết trình và ra về (để tưởng
thưởng sứ điệp sâu xa của ngài) cả giảng đường chật ních
người cùng đồng loạt đứng lên vổ tay khen ngợi.
Chắc chắn đó cũng sẽ là tính chất đặc thù của con người ĐTC
Bênêđíctô XVI và của chuyến tông du cấp nhà nước sắp tới
của ngài tại Vương quốc anh vậy.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần cùng đồng hành với Đức Thánh Cha
trong mọi tư tưởng, lời nói và hành động của ngài trong suốt
cuộc tông du quan trọng này, hầu trong tất cả chỉ vì: Ad majorem
Dei Gloriam! Amen
___________________
1. Kể từ năm 1867, cứ vào khoảng 10 năm lại tổ chức một
cuộc hội nghị qui tụ tất cả các Giám Mục thuộc Giáo Hội Anh
giáo tại lâu đài Lambeth ở Luân Đôn để bàn thảo về các vấn
đề của Giáo Hội.
2. Nhà vua Anh Quốc sẽ lập tức là thủ lãnh của Giáo phái Tô Cách
Lan, một khi nhà vua hay nữ hoàng đi qua biên giới và đặt chân lên
đất Tô Cách Lan.
VietCatholic News
|