Di sản của Rosmini
Rosmini là một linh mục, một tư tưởng gia, một triết gia,
một nhà chính trị học, một chính khách, một nhà ngoại giao,
một văn sĩ, để lại một di sản trước tác lớn lao gồm hơn
một trăm cuốn về đủ mọi bình diện văn hóa, tôn giáo, chính
trị và nhân bản, tạo ra một tổng hợp vĩ đại giữa lý trí và
đức tin trong lịch sử Âu Châu và lịch sử Giáo Hội Kitô Giáo.
Bác Ái, một tu hội độc đáo
Nhưng đóng góp đáng chú ý đầu tiên phải kể là Tu Hội Bác Ái
do ông sáng lập. Tu Hội này được tổ chức lần đầu năm 1830 và
được Tòa Thánh chuẩn phê năm 1838. Tại Ý, các tu sĩ của Tu
Hội thường được gọi là Các Cha Rosminian (Rosminiani), nhưng bên
ngoài nước Ý, người ta quen gọi các ngài là các cha Dòng Bác Ái
(I.C. = Insitute of Charity).
Mục tiêu của Tu Hội là đức ái trọn hảo. Tình yêu Thiên Chúa
là sự viên mãn của luật lệ (plenitudo legis) vì từ chính bản
chất của nó, đức ái vươn tới mọi con cái Thiên Chúa, đúng hơn
tới toàn bộ Tạo Dựng. Bậc sống trước nhất hay ưu tuyển
của một tu sĩ Bác Ái chính là điều “duy nhất cần thiết”
(unum necessarium) như Chúa Kitô đã nói về Maria, hay cuộc sống chiêm
niệm. Nhưng điều đó không có nghĩa loại bỏ hoạt động vì
cầu nguyện dẫn ta tới nghiên cứu và cổ vũ công lý cũng như công
ích.
Tinh thần của Tu Hội Bác Ái được biểu lộ một cách mạnh mẽ
qua niềm tin cho rằng Thiên Chúa nói với con người nhiều cách; Người
biểu lộ thánh ý Người tùy theo khả năng mỗi người. Tu Hội Bác
Ái cũng cho rằng tuy bác ái là một nhưng được thể hiện qua ba
phương diện. Có ba điều tốt liên quan đến bình diện thể lý,
tri thức và luân lý thế nào, thì bác ái cũng được phân chia thành
trần thế (temporal), tri thức và thiêng liêng như vậy. Bác ái
trần thế là loại bác ái thấp nhất, cung cấp sự thiện thấp
nhất. Cao hơn thế nhiều là loại bác ái nhằm gia tăng hiểu
biết chân lý. Nhưng cao hơn cả là loại bác ái chăm lo các linh
hồn. Đối với Tu Hội, đời sống tu trì và đời sống mục vụ
phải gắn bó để trở nên một, đó chính là đỉnh cao của bác
ái, khiến tu sĩ Rosmini chỉ đi tìm địa vị ‘binh nhì’, vô danh
ẩn tánh, trong Giáo Hội. Nôn nao đi tìm vinh dự và quyền hành là
phản bội lý tưởng của mình. Nói cách khác, phải thụ động
trong cõi vô danh ẩn tánh cho tới khi việc công kêu mời, vẫy
gọi. Lúc ấy, người tu sĩ Rosmini phải can đảm, tin tưởng, kiên
tâm lãnh nhận và lao mình vào làm việc.
Giống phần lớn các dòng tu khác, Tu Hội Bác Ái gồm các hội viên
nhận sống trọn kỷ luật của Tu Hội, khấn trọn đời sống
theo ba lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời. Bên cạnh đó
còn có các hội viên có gia đình hay độc thân, không sống đời
sống tận hiến, ‘tu dòng’ nhưng cố gắng sống theo các đặc
sủng của Tu Hội, cầu nguyện hằng ngày và gặp gỡ các hội viên
khác khi có thể.
Người muốn sống các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng
lời phải qua một thời kỳ tìm hiểu kỹ lưỡng. Sau 2 năm tập,
sẽ được khấn tạm, được gọi là tu sinh (scholastic), nhưng
chỉ được kể là hội viên chính thức của Tu Hội khi trở thành
tu sĩ hậu bổ (coadjutor) sau một thời kỳ chuẩn bị về đời
sống tu trì, về linh đạo và học tập. Các tu sĩ hậu bổ phải
thêm lời hứa không được mưu cầu bất cứ chức tước nào,
cả trong Tu Hội lẫn ngoài Tu Hội. Các lời khấn dòng được
lặp lại vào lúc này, nhưng từ nay, trở thành vĩnh viễn. Các tu
sĩ hậu bổ này được chia thành hai: tu sĩ hậu bổ nội viện
sống trong các nhà của Tu Hội, tu sĩ hậu bổ ngoại viện sống
tại các nơi khác. Các trưởng sĩ (presbyters) được chọn trong
số các tu sĩ hậu bổ nội viện. Các vị này phải khấn thêm
lời khấn đặc biệt vâng phục đức giáo hoàng. Tóm lại, các
hội viên chính thức của Tu Hội bao gồm các tu sĩ hậu bổ và các
trưởng sĩ. Các trưởng sĩ này là những người chủ trì đời
sống và hoạt động của Tu Hội, được ủy nhiệm các công tác
có tính phổ quát hơn.
Đối với tu sĩ Rosmini, khó nghèo không có nghĩa từ bỏ mọi sở
hữu; đúng hơn, nó có nghĩa không bị chiếm hữu bởi các sở
hữu của mình; chính vì thế, các thành viên của Tu Hội được
phép có sở hữu riêng. Đây là nét khá đặc trưng của Tu Hội,
một đặc trưng vốn không được Tòa Thánh hài lòng, cho rằng
chỉ có tính xúc cảm chứ không hữu hiệu (affective, not effective).
Nhưng Rosmini trả lời bằng cách ấn định ra các điều kiện cho
quyền tư hữu này: nó chỉ là tối thiểu dưới mắt luật lệ dân
sự và người tu sĩ phải sẵn sàng, vì đức vâng lời, mà từ
bỏ cả thứ tư hữu nhỏ nhoi đó; đàng khác, không tu sĩ nào có
thể mặc tình giữ, quản lý hay sử dụng một đồng xu. Ông cũng
nói tới bản chất tư hữu, ví nó như bắp thịt cổ (complexus)
của mọi thứ quyền; mà quyền lợi là tương quan và có thể phân
chia; chúng có tương quan với Nhà Nước hay Giáo Hội; tu sĩ giữ
sở hữu chỉ có tương quan với Nhà Nước, và không có tính
tuyệt đối. Theo ông, sự nghèo khó tuyệt đối mới chống lại
Phúc Âm, chứ không phải sự nghèo khó tương đối. Kể từ thời
ông, việc để tư hữu dưới chủ quyền hợp pháp của các cá nhân
này được nhiều người cho là sáng suốt. Hơn nữa, việc không
ngừng đòi hỏi phải hy sinh quyền tư hữu kia đã mang lại nhiều
ơn ích thiêng liêng.
Lời khấn khiết tịnh được hiểu theo nghĩa: không những không
lập gia đình và phải tránh mọi sinh hoạt tính dục, mà còn
phải biết cách cư sử với người khác một cách thích đáng.
Lời khấn vâng lời có nghĩa phải lắng nghe các yêu cầu của người
phụ trách, lưu ý tới lợi ích của Dân Chúa, và cầu nguyện để
nhìn thấy bàn tay Thiên Chúa trong các điều được yêu cầu.
Mục đích để hoạt động bác ái, nên Tu Hội chọn lối sống không
làm cho các tu sĩ xa cách người khác. Họ không có tu phục hay
lối hành xác nào đặc biệt, thay vào đó, họ sống nhiệm nhặt
bằng cách chấp nhận các khắc khổ thường hằng trong thân phận
tự chọn, không nhiều luật lệ, nhưng xác tín mạnh mẽ vào nguyên
tắc để Tu Hội huấn luyện mình thành người Tu Hội muốn. Với
Nhà Nước, Tu Hội không đòi hỏi bất cứ miễn trừ nào, chỉ là
các quyền chung. Nếu quyền lập hội bị từ khước, Tu Hội vẫn
sinh hoạt được một cách tư riêng và đầy chiêm niệm, nhờ
thế vẫn đạt được mục tiêu của mình. Các thành viên của Tu
Hội vẫn là các công dân, với đầy đủ mọi quyền lợi và
nhiệm vụ. Đối với Giáo Hội, Tu Hội có mối tương quan chủ
yếu này là sống cho Giáo Hội, không cho mình, không lẫn lộn
quyền lợi của một tu hội với quyền lợi của Thế Giới Kitô
Giáo, và được tổ chức sao cho luôn là đầy tớ của hàng giám
mục. Tinh thần bè phái, phe nhóm bị luật Tu Hội loại bỏ vì đi
ngược lại tinh thần của mình, bởi “nền tảng của Tu Hội là
Sự Quan Phòng của Thiên Chúa Cha, đặt một nền tảng khác là
hủy hoại nó”. Thay vì tìm cách làm cho mình lớn mạnh, khuynh hướng
của Tu Hội là làm cho hiệp đoàn mọi tín hữu Công Giáo gần gũi
nhau hơn và nhạy cảm với nhau hơn, giúp họ cảm nhận được
sự vĩ đại của chính họ, cảm nhận mình mạnh hơn trần gian và
là những người cùng làm việc với Đấng Quan Phòng trong kế
hoạch đặt mọi sự dưới chân Chúa Kitô.
Hoạt động của Tu Hội phát triển khá nhanh. Ngay đầu thế kỷ
20, Tu hội đã phát triển mạnh tại Anh, tại Hoa Kỳ, Áo, Ái Nhĩ
Lan. Từ Tu Hội, nhiều nhân tài đã xuất thân như Vincenzo de Vit, tác
giả hai công trình giá trị: cuốn "Lexicon totius
Latinitatis", và cuốn "Onomasticon", một cuốn từ điển
về tên riêng; Giuseppe Calza, một triết gia tiếng tăm; Paolo Perez,
trước đây là giáo sư tại Padua và là bậc thầy về lối văn Ý
hết sức tinh tế; Gastaldi, sau làm Tổng Giám Mục Turin;
Cardozo-Ayres, Giám Mục Pernambuco, qua đời tại Rôma lúc tham dự Công
Đồng Vatican I, và xác không thối rữa sau đó được chuyền về
giáo phận chính tòa của ngài và được nhiều người tôn kính.
Tại Anh có Cha Richard Richardson, người tổ chức thánh chiến
chống sự vô độ được 70,000 tham gia; và Cha Joseph Hirst, thành viên
Viện Khảo Cổ Hoàng Gia. Hiện nay, ngoài các nước trên, Tu Hội còn
hiện diện tại Ấn Độ, Tân Tây Lan, Tanzania, Kenya và Venezuela.
Chống chủ nghĩa toàn trị
Di sản đáng kể thứ hai là các trước tác về chính trị học
của Rosmini. Như nguyên Tổng Thống Gronchi của Ý trước đây
từng nói, Rosmini là người đã khai sinh “các định chế tự do
của chúng ta”, “là bậc thầy của nguyên lý tự do”, người
“đã mạnh mẽ tuyên xưng các bổn phận và quyền lợi” cần
thiết của tự do, người mãi mãi “trung thành với lý tưởng
tự do trong các trước tác triết học của mình, trong khi đó, về
lãnh vực hoạt động chính trị, ông luôn nhất quán với nguyên lý
cai trị theo hiến định”. Các đóng góp có tính nền tảng của
ông trong phạm vi này đã được Đức Hồng Y Saraiva Martins, Bộ Trưởng
Thánh Bộ Phong Thánh, Triết Gia Dario Antiseri và Đại Sứ Anh bên
cạnh Tòa Thánh Francis Campbell nhắc tới.
Ngày 1 tháng 7 năm 2008, tại Nhà Thờ Chánh Tòa Westminster, nhân
ngày lễ kính lần đầu Chân Phúc Rosmini, Francis Campbell đã lên
tiếng ca ngợi vị chân phúc độc đáo này. Ông nhất trí với
nhận định của nguyên Tổng Thống Gronchi khi cho rằng Rosmini đóng
vai trò chính trong việc tạo ra ý thức quốc gia Ý mà cuối cùng
đã dẫn tới việc thống nhất nước Ý vào năm 1870. Campbell cũng
cho rằng xét theo nhiều phương diện, Rosmini đã đi trước thời
đại của ông trong các trước tác chính rị, triết học và thần
học của mình. Các trước tác chính trị ấy đã không được các
thế lực thực dân đế quốc ở Bắc Ý hồi đó, tức Áo, tiếp
nhận. Không những thế, Đế Quốc ấy còn có nhiều thái độ tiêu
cực đối với sinh hoạt hằng ngày của Giáo Hội. Điều ấy
khiến Rosmini, vào năm 1823, đã lên tiếng kêu gọi phài dành cho Giáo
Hội một sự độc lập lớn hơn đối với sự can thiệp của Nhà
Nước. Cùng một lúc, ông cũng kêu gọi việc tôn giáo tách rời
khỏi nhà nước, và nói chung phải có tự do tôn giáo. Không ai ngày
nay phủ nhận được sự kiện ông là vị tiền hô của văn kiện
Dignitatis Humanae mà Công Đồng Vatican đã đúc kết về tự do tôn
giáo như Đức Hồng Y Martins vốn nhận định. Đức Hồng Y cho
rằng các ý niệm cũng như ý kiến chính trị không phải là yếu
tố xác định ra việc phong chân phúc cho Rosmini, bởi một lẽ
giản dị là Giáo Hội cũng đã phong chân phúc cho Đức Piô IX, người
có quan điểm chính trị khác với Rosmini. Tuy nhiên, theo Đức
Hồng Y, không ai chối cãi được sự kiện này là lịch sử sau ông
đã đi theo những gì Rosmini từng chủ trương về phương diện chính
trị. Sandro Magister thì cho rằng trong cuốn "Filosofia della
politica [Triết Lý Chính Trị Học]", Rosmini ca ngợi cuốn
“Nền Dân Chủ Mỹ” của người đồng thời là Alexis de
Tocqueville, cha đẻ của chủ nghĩa tự do thân tôn giáo. Ông không
mệt mỏi bênh vực các quyền tự do của công dân và các bộ
phận trung gian (intermediate) chống lại các lạm dụng của nhà nước
uy quyền. Một điều cần ghi nhận là những người hiện đang
truyền bá tư tưởng của Rosmini đều là những người theo chủ
nghĩa tự do thân tôn giáo này. Ở Âu Châu, ta thấy có trường phái
Vienna gồm những người như Ludwig von Mises và Friedrich von Hayek.
Tuy nhiên, không ai làm nổi bật chủ nghĩa tự do của Rosmini bằng
triết gia Antiseri, giáo sư tại Libera Università degli Studi "Guido
Carli" ở Rome, và là tác giả cuốn “Lịch Sử Triết Học”
được dịch ra nhiều thứ tiếng. Trong một bài đăng trên nhật báo
“Avvenire” của Hội Đồng Giám Mục Ý ngày 1 tháng 11 năm 2007,
Antiseri cho rằng các lý thuyết chính trị của Rosmini là khía
cạnh nói lên tính độc đáo của ông hơn cả, một tính độc đáo
mà nhiều người Công Giáo hiện nay không hẳn ủng hộ, trong số
ấy có nhiều giám mục và linh mục. Sợ rằng sau việc phong chân
phúc cho ông, tư tưởng ông về phương diện này vẫn còn rất lâu
mới trở thành ngôn ngữ được chấp thuận trong Giáo Hội Công
Giáo. Ở đây, Antiseri đề cập tới một khía cạnh trong tư tưởng
chính trị của Rosmini: thái độ chống chủ nghĩa toàn trị của
ông.
Theo Antiseri, quan tâm hàng đầu và căn bản của Rosmini trong lãnh
vực chính trị là thiết lập ra các điều kiện cần thiết để
bảo đảm phẩm giá và tự do của con người nhân bản. Trong nhãn
quan này, vấn đề quyền tư hữu trở thành cốt yếu. Để chống
lại lý thuyết kinh tế của phe xã hội chủ nghĩa, Rosmini minh nhiên
chủ trương mối liên kết giữa quyền tư hữu và tự do cá nhân.
Trong ‘Filosofia del dirito” (Triết Lý Về Quyền Lợi), ông ciết:
“Tư hữu thực sự diễn tả sự kết hợp mật thiết giữa sự
vật và con người. […] Tư hữu là nguyên lý khởi sinh ra các
quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp. Tư hữu tạo nên một khu vực
bao quanh con người mà con người nằm ở trung tâm: không một ai khác
được phép bước vào khu vực ấy”.
Tôn trọng tư hữu của một người là tôn trọng chính con người
đó. Tư hữu là phương tiện để con người tự bênh vực mình
chống lại sự xâm lấn của Nhà Nước. Đối với Rosmini, con người
có thể sai lầm, nhưng Nhà Nước thì không bao giờ toàn hảo cả.
Và câu nói bất hủ của Rosmini là câu sau đấy trích từ cuốn
“Triết Lý Chính Trị Học”:
“Chủ nghĩa toàn hảo, với nghĩa một hệ thống tin rằng: trong
sự việc nhân bản, người ta có thể đạt được sự toàn hảo,
và cần phải hy sinh cái tốt hiện tại để đạt sự toàn hảo tưởng
tượng trong tương lai, là kết quả của ngu dốt. Nó bao hàm một
tiên kiến (prejudice) đầy ngạo mạn vốn phán đoán một cách quá
thuận lợi về bản tính con người, tự dựa vào những suy đoán
thuần túy, vào định đề vô giá trị, và hoàn toàn thiếu suy nghĩ
về các giới hạn tự nhiên”.
Chủ nghĩa toàn hảo quên mất nguyên tắc sự vật có giới hạn;
nó không để ý gì tới chân lý: xã hội đâu có bao gồm “các
thiên thần đầy ân sủng” mà bao gồm “những con người có
thể lầm lẫn”; nó cũng quên rằng mọi chính phủ đều “hợp
thành với những con người, vì là người, nên thẩy đều có
thể sai lầm”. Người duy toàn hảo không sử dụng mà cũng không
lạm dụng lý trí. Và những người bị ý niệm ma mãnh của chủ
nghĩa toàn hảo đầu độc thẩy đều không tưởng. Những “tiên
tri của hạnh phúc vô bờ” này với lời hứa một thiên đường
hạ giới, thực ra, đang bận bịu xây nên những hỏa ngục cho các
đồng bào mình.
Rosmini khẳng định rằng không tưởng là “mồ chôn mọi chủ
nghĩa tự do chân thực” và “thay vì làm con người hạnh phúc, nó
đào ra cả một hố thẳm của bất hạnh; thay vì làm con người
cao thượng, nó biến họ trở thành những con thú đáng khinh; thay
vì làm họ được bình an, nó đem lại chiến tranh toàn diện, thay
thế luật pháp bằng bạo lực; thay vì phân phối, nó tập trung
của cải; thay vì điều hòa hóa quyền cai trị, nó làm cho quyền
ấy trở thành tuyệt đối; thay vì mở ra việc cạnh tranh cho mọi
người trên mọi lãnh vực, nó tiêu diệt mọi hình thức cạnh
tranh; thay vì khuếch trương kỹ nghệ, nông nghiệp, nghệ thuật và
thương mãi, nó tước hết mọi sáng kiến khỏi chúng, ngăn cản
mọi sáng kiến và hoạt động tự phát của tư nhân; thay vì thúc
đẩy các trí khôn tạo ra các sáng chế lớn lao và các trái tim đạt
được các nhân đức anh hùng, nó bóp nghẹt và đập nát bất
cứ sinh khí nào của linh hồn, biến bất cứ cố gắng cao thượng
nào, bất cứ lòng hào hiệp nào, bất cứ hình thức anh hùng nào
thành số không; chính nhân đức cũng bị ngăn cấm, và cả niềm
tin vào nhân đức cũng bị tiêu diệt hết”.
Theo Antiseri, ở đây cần ghi nhận điều này: liên hệ tới chủ
trương bài toàn trị của Rosmini là phê phán mạnh mẽ của ông đối
với sự ngạo mạn của luồng tư duy tự cho mình chiến thắng
trong các trước tác của Phong Trào Ánh Sáng, để rồi sau đó cho
sổ lồng đủ thứ khủng khiếp rợn người của Cách Mạng Pháp.
Nữ thần Lý Trí là biểu tượng cho tham vọng của con người
muốn chiếm chỗ của Thiên Chúa để tạo ra một xã hội toàn
hảo. Phán xét của Rosmini dành cho tham vọng của Phong Trào Ánh Sáng
khiến ta nhớ tới những nhận định tương tự của những người
như Edmund Burke và Friedrich A. von Hayek.
Trong tư cách một người chống lại chủ nghĩa toàn hảo dựa trên
“thương tích tự nhiên của con người”, Rosmini một lần nữa
nhấn mạnh, trong “Triết Lý Chính Trị Học”, rằng việc ông
chống lại chủ nghĩa toàn hảo “không nhằm bác bỏ khả thể hoàn
hảo hóa của con người và xã hội. Vì việc con người càng
sống càng có thể liên tục trở nên hoàn hảo hơn là một thực
tại qúy giá; nó chính là một tín điều của Kitô Giáo”.
Như thế, chủ nghĩa bài duy toàn hảo của Rosmini hàm nghĩa một
cố gắng lớn hơn. Từ cố gắng này, ông chú tâm tới điều ông
gọi là “cuộc tranh luận lâu dài, công khai và tự do”. Chính
nhờ cuộc tranh luận đầy thân hữu này, con người sẽ rút ra
được những điều tốt đẹp nhất và loại bỏ được các lầm
lẫn khỏi các dự án và ý niệm của mình. Trong “Triết Lý Chính
Trị Học”, ông viết thêm: “Các cá nhân tạo thành một dân
tộc không thể nào hiểu được nhau nếu họ không năng nói với
nhau; nếu họ không mạnh mẽ đối chất với nhau; nếu lầm lẫn
không được rút ra từ tâm trí họ để rồi đánh phá chúng dưới
mọi hình thức”.
Trong tư cách một người chống lại chủ nghĩa duy Nhà Nước, và
do đó, bênh vực “các bộ phận trung gian” và trong tư cách người
đấu tranh cho tự do, Rosmini rất chú tâm tới các đau khổ và
vấn nạn của người bần cùng và thất thế nhất. Nhưng bổn
phận liên đới theo tinh thần Kitô Giáo không cho phép ta nhắm
mắt trước tác hại lớn lao của các chương trình trợ giúp do Nhà
Nước quản trị. Ông quả quyết “Trong các tình huống khó khăn
nghiêm trọng nhất, lòng ‘từ tâm’ của chính phủ rất được
người ta trông mong. Nhưng thay vì điều tốt, lòng từ tâm ấy có
thể tạo ra tác hại, không những cho quốc gia, mà còn cho chính
giai cấp nghèo khó, giai cấp mà họ có ý định giúp đỡ; trong trường
hợp này, thay vì từ tâm, nó đã trở thành ác tâm. Nó cũng thường
ác tâm vì làm cạn kiệt mọi tài nguyên bác ái tư, không khuyến
khích các công dân trợ giúp người nghèo, vì ai cũng nghĩ những
người nghèo này đang nhận được trợ giúp của chính phủ, trong
khi thực ra họ không nhận được và không thể nhận được sự
trợ giúp ấy, ngoại trừ trong một phạm vi rất nhỏ”.
Vũ Văn An
VietCatholic News
|