Antonio Rosmini, người của đức tin, lý trí và trái tim
Thứ năm, ngày 1 tháng 7 vừa qua, nhân dịp kỷ niệm lần thứ
155 ngày qua đời của Antonio Rosmini, Chủ Tịch Hội Đồng Giám
Mục Ý là đức Hồng Y Angelo Bagnasco, đã tới Stresa cử hành Thánh
Lễ mừng kính ông. Trong bài giảng lễ, Đức HY Bagnasco nhấn
mạnh rằng với Rosmini, đức tin, lý trí và trái tim chính là phương
thế để đối thoại với thế giới hiện đại và vượt qua các
trở ngại cũng như khó hiểu do chủ nghĩa thế tục đem đến. Đức
Hồng Y cho rằng con đường gặp gỡ và đối thoại với thế
giới hiện đại luôn được gợi hứng bởi nhiều ánh sáng và khát
vọng chung nhưng không thiếu trở ngại và nhiều thiên kiến sâu
xa. Muốn vượt qua những trở ngại và hiểu lầm ấy, Rosmini chỉ
cho ta con đường đức tin, lý trí và trái tim: “qua một hành trình
lâu dài và liên tục, hào hứng và sâu sắc đầy suy tư và nghiên
cứu, nhưng trước hết phải cầu nguyện và sống thực”. Đức
Hồng Y cũng nhấn mạnh tới một đòi hỏi khác cũng đã được
Rosmini nêu ra và nêu gương cho những người biết tin, suy tư và đối
thoại: lòng khiêm tốn, đủ để chấp nhận đau đớn và khổ
nhục.
Một cuộc đời đầy sóng gíó
Rosmini chính là nhân vật được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI nâng
lên hàng đáng kính vào ngày 26 tháng 6 năm 2006. Một năm sau, tức
vào ngày 3 tháng 6 năm 2007, Đức Bênêđíctô XVI ký sắc lệnh
chấp thuận việc phong chân phúc cho ông và lễ phong chân phúc đã
diễn ra ngày 18 tháng 11 cùng năm tại Novara, Ý Đại Lợi. Toàn
bộ diễn biến này được Sandro Magister gọi là một phép lạ (1).
Vì, con người được nâng lên hàng đáng kính và chân phúc ấy
từng bị “Giáo Hội” trù dập suốt từ năm 1849 cho tới tận năm
2001. Cũng chính vì sự trù dập này, không thiếu những người cho
rằng hành động của Đức Bênêđíctô XVI nhân việc phong chân phúc
cho Rosmini chỉ là một hành vi lạc giáo không hơn không kém.
Các phản ứng trái ngược trên đủ cho ta thấy: cuộc đời của
chân phúc Rosmini không hề đơn giản chút nào. Sinh tại Rovereto, lúc
ấy thuộc Đế Quốc Áo Hung, vào ngày 24 tháng 3 năm 1797, Rosmini
vốn thuộc một gia đình giầu có trong vùng. Tuy nhiên, ông được
cha mẹ gửi vào học trường công. Tháng 8 năm 1816, ông dự kỳ
thi mãn trung học đệ nhị cấp với điểm ưu hạng cho tất cả các
môn và được phê là “có trí thông minh vượt bậc”. Mùa thu năm
ấy, ông bắt đầu học thần học tại Đại Học Padua, nơi ông
đậu cử nhân năm 1822. Trước đó, vào năm 1821, ông được thụ
phong linh mục. Sau đó, ông được tháp tùng thượng phụ Venice là
Đức Hồng Y Ladislao Pyrcher tới Rôma. Tại đây, ông được Đan
Viện Phụ Mauro Cappellari, tức Đức GH Grêgôriô XVI tương lai,
giới thiệu với Đức Thánh Cha Piô VIII. Vị giáo hoàng này khuyên
ông nên chuyên chăm viết sách thay vì hoạt động ở ngoài đời,
vì thấy ông rất giỏi về lý luận. Năm 1830, ông cho xuất bản tác
phẩm lớn đầu tiên về triết học, tựa là “Khảo Luận Mới
về Nguồn Gốc Các Ý Niệm”. Ngày 2 tháng 2 năm 1831, người bạn
của ông là Hồng Y Capellari lên ngôi giáo hoàng. Chỉ trong hơn 10
ngày từ ngày 18 tới ngày 30 tháng 11 năm 1832, ông viết xong cuốn
“Năm Thương Tích Của Giáo Hội Thánh Thiện”. Trong cuốn này,
ông tố cáo các nguy cơ đang đe dọa sự hợp nhất và nền tự do
của Giáo Hội, và đưa ra các phương thuốc chữa trị. Cuốn sách
chỉ được xuất bản năm 1846.
Năm 1839, ông cho xuất bản cuốn “Khảo Luận về Lương Tâm Luân
Lý”. Trong cuốn này, ông cho rằng trí khôn con người được soi
dẫn bởi ánh sáng thực tại tức ánh sáng chân lý. Do đó, có
một cái gì “thần thiêng” ngay trong chính con người. Một số
tu sĩ Dòng Tên lên tiếng mạnh mẽ tấn công các luận điểm của
ông. Năm 1848, theo lệnh của Vua Piedmont là Carlo Alberto di Savoia,
Rosmini trở lại Rôma với sứ mệnh ngoại giao, nhằm thuyết phục
Đức Giáo Hoàng Piô IX làm quốc trưởng một liên bang các quốc
gia Ý Đại Lợi. Nhưng khi chính phủ Piedmont yêu cầu đức giáo hoàng
tham gia cuộc chiến chống lại Áo, Rosmini đã từ bỏ vai trò
ngoại giao của mình. Tuy nhiên, Đức Piô IX yêu cầu ông lưu lại
Rôma. Có nguồn tin ông sẽ làm hồng y quốc vụ khanh, và sau khi
thiết lập ra Cộng Hòa Rôma, sẽ làm thủ tướng. Nhưng ông từ
khước cầm đầu một chính phủ cách mạng nhằm tước quyền
tự do của đức giáo hoàng. Ngày 24 tháng 11 năm 1848, Đức Piô IX
chạy về Gaeta. Rosmini tháp tùng ngài. Nhưng chẳng bao lâu sau đó,
ông bị thất sủng vì chống đối đường lối chính trị của Đức
Hồng Y Giacomo Antonelli, người muốn sử dụng quân đội ngoại
quốc để ủng hộ đức giáo hoàng. Năm 1849, Rosmini rời bỏ hàng
ngũ của Đức Piô IX.
Về điểm này, từ điển mở Wikipedia cho rằng: năm 1848, ông được
mời phục vụ tại Giáo Triều của Đức Piô IX trong tư cách thủ
tướng các Lãnh Địa Giáo Hoàng. Ông tham gia cuộc tranh đấu trí
thức nhằm mục đích thoát ly khỏi Đế Quốc Áo, nhưng với tư cách
cố vấn và là nhà ngoại giao tin cậy của đức giáo hoàng, ông
không khởi xướng phong trào nhằm giải phóng và thống nhất nước
Ý. Thực vậy, dù rất muốn giải phóng Ý khỏi Đế Quốc Áo,
mục đích của ông lại là thành lập một liên bang các quốc gia
đặt dưới quyền kiểm soát của đức giáo hoàng. Nhưng, với
việc thành lập Cộng Hòa Rôma, Đức Piô IX đã buộc phải chạy
trốn và trở thành xa lạ đối với người cố vấn cũ của mình
trong các vấn đề chính trị. Hoàn cảnh mong manh về chính trị lúc
ấy khó có thể giảng hoà hai nhân vật này vì các dự án rất khác
nhau của họ: các canh tân nhằm cải tiến xã hội và luật lệ, dù
nhỏ nhoi, cũng phải lùi bước trước các nhu cầu cấp bách có tính
hiện sinh nhằm bảo vệ tính tối thượng về quyền lực thế
tục cho Giáo Hội.
Rời Rôma, ông trở lại miền Bắc nước Ý. Nhưng đang trên đường
tới Stresa, ông được tin hai cuốn “Năm Thương Tích của Giáo
Hội Thánh Thiện” và “Hiến Pháp Dân Chính Theo Công Bằng Xã
Hội” bị liệt vào Bảng Các Sách Bị Cấm. Rosmini lập tức tuyên
bố phục tùng và vui lòng ẩn dật tại Stresa. Ở đấy, dưới
sự công kích của nhiều tu sĩ Dòng Tên, nhưng được sự nâng đỡ
tận tình của nhiều bằng hữu, trong đó có Alessandro Manzoni,
tiểu thuyết gia danh tiếng, ông dành trọn thời giờ hướng dẫn
hai tu hội do ông sáng lập và viết tác phẩm thời danh
"Theosophia" (Triết thần học).
Năm 1854, ông bị Vatican xử lần đầu, nhưng được trắng án. Hai
tác phẩm của ông được tuyên bố là vô hại, và không còn bị
coi là sách cấm nữa. Ông qua đời tại Stresa sau đó ít lâu, tức
ngày 1 tháng 7 năm 1855.
Tuy nhiên, 20 năm sau khi ông qua đời, từ ngữ “dimittantur” làm
tựa đề cho quyết định của Văn Phòng Thánh (Holy Office, Bộ Giáo
Lý Đức Tin ngày nay) nhằm “giải vạ” hai tác phẩm của ông
được đem ra tranh luận trở lại. Có người cho rằng từ ngữ này
là bằng chứng của việc chấp thuận trực tiếp đối với hai tác
phẩm, nhưng có người lại cho nó chỉ có nghĩa tiêu cực và do đó
không hàm nghĩa hai tác phẩm này không có lầm lẫn. Cuộc tranh
luận này tiếp tục cho tới năm 1887, khi Đức Lêô XIII chấp
thuận Sắc Lệnh “Post Obitum” (sau khi đã qua đời) của Văn Phòng
Thánh lên án 40 mệnh đề của ông và cấm không được giảng
dạy về chúng. Sắc lệnh này phải đợi tới ngày 1 tháng 7 năm
2001, nhân kỷ niệm năm thứ 146 sau ngày ông qua đời, mới được
thu hồi bằng quyết định của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, lúc
ấy dưới quyền điều khiển của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger.
Tuyên bố của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin
Thành thực mà nói: cung cách giải “oan” cho Rosmini khá đặc
biệt và tế nhị. Nguyên hình thức của nó cũng đã lạ lùng
rồi. 40 mệnh đề của Rosmini bị lên án và cấm giảng dạy
bằng một sắc lệnh. Nhưng chúng đã được tuyên bố là không
sai lầm bằng một văn kiện có tên chính thức trong tiếng Anh là
“Note on the Force of the Doctrinal Decrees Concerning the Thought and Work of
Fr Antonio Rosmini Serbati” (Ghi Chú về Quyền Lực Pháp Lý của Các
Sắc Lệnh Tín Lý Liên Quan Tới Tư Tưởng và Công Trình của Cha
Antonio Rosmini Serbati). Chúng tôi dịch chữ “Note” là Ghi Chú, vì
thực sự không biết thuật ngữ chuyên môn của Thánh Bộ này có
nghĩa gì. Rất có thể nó có nghĩa khác, nên Gregory Baum, một nhà
cực duy hiện đại (arch-modernist), vốn không ưa gì Đức HY
Ratzinger, khi lên tiếng nhận định về văn kiện này, đã dùng
nguyên ngữ La Tinh “nota” để gọi nó.
Thứ hai, chúng tôi nói sắc lệnh lên án 40 mệnh đề của
Rosmini đã được thu hồi (revoked) là nói theo một số nhà bình
luận cho giản tiện. Chứ thực ra, nó không bị thu hồi đúng nghĩa.
Thu hồi phải là vô hiệu lực, bị hủy bỏ. Đàng này, sắc
lệnh trên không hẳn bị hủy bỏ. Nói theo Baum, mục đích của nó
là bãi bỏ việc lên án 40 mệnh đề của Rosmini. Còn hiệu lực
pháp lý của nó vẫn còn đó, ít nhất đối với những ai đọc
Rosmini bên ngoài hệ thống của ông. Từ ngữ chính thức được văn
kiện này dùng là “bị thay thế” (superseded) và không hẳn chính
sắc lệnh mà là các nguyên động lực đưa đến việc công bố
sắc lệnh này đã bị thay thế. Ta hãy đọc phần quan trọng
nhất của văn kiện, tức số 7:
“Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, sau khi khảo sát ngọn nguồn hai
Sắc Lệnh tín lý, được công bố trong thế kỷ 19, và xem xét các
kết quả phát sinh từ khoa nghiên cứu lịch sử cũng như tìm tòi
khoa học và lý thuyết của 10 năm qua đã đạt tới kết luận sau
đây: 'Các nguyên động lực khiến có sự quan tâm tín lý và khôn
ngoan cũng như các khó khăn đến độ phải công bố Sắc Lệnh lên
án 40 mệnh đề rút ra từ các công trình của Antonio Rosmini nay
được coi là bị thay thế. Sở dĩ như thế, là vì ý nghĩa của các
mệnh đề này, như đã được Sắc Lệnh hiểu và lên án, không
nằm trong chủ trương đích thực của Rosmini, mà nằm trong các
kết luận có thể đã được rút ra từ việc đọc các công trình
của ông. Các vấn đề liên quan tới tính đáng tin cậy
(plausibility) của hệ thống Rosmini, của sự nhất quán về suy lý
của nó và của các lý thuyết cũng như giả thuyết về triết lý
và thần học trong đó vẫn còn được ủy thác cho cuộc tranh
luận lý thuyết.
Đồng thời, hiệu lực khách quan (objective validity) của Sắc Lệnh
liên quan tới các mệnh đề bị kết án trước đây vẫn còn đó
đối với bất cứ ai, đứng bên ngoài hệ thống của Rosmini, và
đọc chúng theo quan điểm duy tâm luận (idealist), tồn hữu luận
(ontologist) và với một ý nghĩa đi ngược lại đức tin và tín lý
Công Giáo'”.
Gregory Baum coi quyết định này nói lên một mâu thuẫn nội bộ
với ý nghĩa: những gì trước đây bị Giáo Hội coi là sai lầm
nay được Giáo Hội nhìn nhận là đúng đắn. Nhưng nếu đọc
kỹ lời lẽ rào trước đón sau của văn kiện, người ta khó mà
nhất trí với nhận định của Baum. Số 2 của văn kiện giúp ta
hiểu phần nào điểm tế nhị này: “Đọc vội vàng và phiến
diện các can thiệp khác nhau này khiến người ta nghĩ rằng chúng
tạo nên một mâu thuẫn nội tại và khách quan về phía Huấn
Quyền trong các đường lối giải thích nội dung tư tưởng của
Rosmini và trong đường lối đánh giá nó cho Dân Chúa. Tuy nhiên, đọc
một cách cẩn trọng không những các bản văn của Thánh Bộ, mà
cả ngữ cảnh của chúng cũng như tình thế lúc công bố chúng,
một tình thế cho phép có những khai triển lịch sử, ta sẽ đánh
giá được việc suy tư đầy cảnh giác và gắn bó, luôn lo lắng
đối với nhiệm vụ gìn giữ đức tin Công Giáo và quyết tâm không
cho phép có những giải thích sai lạc hay giản lược đối với đức
tin ấy. Ghi Chú hiện nay về giá trị tín lý của các văn kiện trước
đây cũng nằm trong dòng suy tư đó”.
Nói cách khác mọi văn kiện trên đều không có gì mâu thuẫn,
vì đều cùng phát sinh từ một âu lo, một quan tâm, một sứ
mệnh như nhau là gìn giữ đức tin Công Giáo khỏi các nguy hại, méo
mó, lệch lạc có thể do não trạng hiện đại tạo ra hay làm cho
gia trọng. Một khi não trạng ấy thay đổi hay không còn nữa, thì
những nguy cơ do chúng tạo ra hay làm cho gia trọng cũng không còn.
Lúc ấy, sự ích lợi lớn hơn có thể được xem sét để đưa ra
những kết luận mang lại hiệu quả tốt hơn cho việc gìn giữ đức
tin sống động của Dân Chúa.
Đàng khác, trong Giáo Hội trước đây, người ta tưởng có một
nền triết học chính thức duy nhất được đồng hóa với chủ
nghĩa Tôma (Thomism). Lối suy nghĩ này chính là lực lượng nằm phía
sau việc lên án học lý của Rosmini. Như văn kiện năm 2001 của Thánh
Bộ Giáo Lý Đức Tin đã phân tích, sắc lệnh năm 1854 của Thánh
Bộ, khi bãi bỏ việc cấm lưu hành hai tác phẩm của Rosmini, đã
xác nhận tính chính thống trong tư tưởng của ông. Nhưng đến
thời Đức Lêô XIII, Giáo Hội thấy mình cần phải tách rời
khỏi dòng tư tưởng này trong cố gắng phản công lại lối tư
duy hiện đại, rất nguy hại cho đức tin Công Giáo. Trong cố
gắng này, Giáo Hội đã canh tân việc học hỏi trong các định
chế của mình bằng cách đưa ra thông điệp Aeterni Patris (1879),
nhằm phát huy lòng trung thành với tư duy của Thánh Tôma Aquinô.
Huấn Quyền lúc đó thấy cần phải cổ vũ học thuyết Tôma làm
phương tiện triết học và thần học để đưa ra một tổng hợp
nghiên cứu có tính thống nhất cho việc đào luyện trong Giáo
Hội, nhất là trong các chủng viện và phân khoa thần học, chống
lại phương thức chiết trung hầm bà làng về triết học đương
thời. Việc cổ vũ này tạo ra phán đoán tiêu cực đối với các
chủ trương triết học và suy lý như của Rosmini, vì sự dị
biệt về ngôn từ và hệ thống ý niệm.
Lối suy tư ấy ngày nay không còn thích hợp nữa. Thực vậy, tháng
9 năm 1998, Đức Gioan Phaolô II, trong thông điệp Fides et Ratio,
đã tuyên bố rằng Giáo Hội không hề có một nền triết lý đặc
thù nào và lên án chủ trương cho rằng một hệ thống đơn độc
nào đó có thể đại diện cho tính toàn bộ của triết học. Chính
vì thế, lần đầu tiên, ngài chính thức liệt kê Rosmini vào sổ
các triết gia và thần học gia được Giáo Hội ca ngợi vì các công
trình có giá trị của họ. Khi nhắc lại điểm này, văn kiện
của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin (số 8) cũng nhấn mạnh thêm một
điểm nữa của Thông Điệp nói trên: việc nêu tên các nhân vật
ở đây không hề hàm nghĩa công nhận mọi khía cạnh trong tư tưởng
của họ, mà chỉ là nêu ra các điển hình có ý nghĩa cho diễn trình
tìm kiếm triết học, một diễn trình sẽ phong phú hơn khi nối
kết với các dữ kiện đức tin. Nói cách khác, tâm thức Công Giáo
hiện nay đủ trưởng thành để có thể chào đón tính đa nguyên
của triết học nhằm phục vụ hay giải thích đức tin. Việc
“giải oan” cho Rosmini thực sự là vì lợi ích của tín hữu
vậy.
Diễn trình giải oan
Thực ra, văn kiện giải oan của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin không
hẳn là độc đáo. Nó chỉ là bước cuối cùng của một diễn trình
dài, bắt đầu từ trước Công Đồng Vatican II. Thực vậy, dù
một số mệnh đề của Rosmini bị coi là không đồng thanh đồng
khí (consonant) với chân lý Công Giáo và bị cấm không được
giảng dạy, nhưng chính sắc lệnh Post Obitum cũng không minh nhiên
coi chúng là lạc giáo. Bản thân ông không hề bị lên án và
nhất là tu hội do ông sáng lập vẫn tiếp tục hoạt động và
hoạt động rất hiệu quả ở khắp mọi nơi. Nhờ thế, phần
lớn học thuyết của ông vẫn được truyền bá, nghiên cứu, các
tác phẩm của ông vẫn được in ấn, phổ biến, học hỏi.Theo
Royden Hunt của Đại Học Cardiff, Anh (2), các triết gia như Brentano
và sau đó Husserl cũng như Heidegger đều cho thấy những dấu vết
chịu ảnh hưởng sâu sắc của Rosmini…
Từ 1930 tới năm 1960, nhà xuất bản quốc gia của Ý đã công
bố 30 tác phẩm lớn của ông. Việc này đã kích thích các đại
học Ý, nhất là các đại học ở phía Bắc, hăng say nghiên cứu
về ông. Stresa, nơi có một văn khố lớn về Rosmini, cũng là một
trung tâm khảo cứu nhộn nhịp, tạo ra nhiều tác phẩm cũng như
nhiều hội nghị chuyên đề về ông. Và, năm 1955, nhân dịp kỷ
niệm 100 năm ngày ông qua đời, một hội nghị quốc tế đã được
triệu tập. Nhân dịp này Tổng Thống Ý, Sig. Gronchi, đã gửi cho
Cha Giuseppe Bozzetti, Bề Trên Tu Hội Bác Ái do ông sáng lập, một
điện văn trong đó có đoạn: “Tên tuổi và công trình của
Antonio Rosmini thuộc di sản của Phong Trào Hồi Sinh Ý Đại Lợi
(Risorgimento) hiện vẫn còn được nhân dân Ý duy trì như một
thực tại tâm linh có tính sinh tử. Chính từ di sản đó, ý thức
quốc gia của chúng ta đã thành hình, các định chế tự do của
chúng ta đã được khai sinh. Rosmini là bậc thầy của nguyên lý
tự do, duy trì được sự quân bằng hoàn hảo giữa lý thuyết và
thực hành; ông cũng đã mạnh mẽ tuyên xưng các bổn phận và
quyền lợi mà nền tự do cần phải có nếu muốn đơm hoa kết trái.
Là một trong các tư tưởng gia độc đáo và có ý nghĩa nhất mà
nước Ý và Âu Châu đã cho ra đời trong thế kỷ 19, Rosmini mãi mãi
luôn trung thành với lý tưởng tự do trong các trước tác triết
học của mình, trong khi đó, về lãnh vực hoạt động chính trị,
ông luôn nhất quán với nguyên lý cai trị theo hiến định. Song
song với tư cách một triết gia và một tư tưởng gia về chính
trị, trước nhất, ông còn là một nhà giáo dục, không những qua
gương sáng đời sống, mà còn qua việc hiểu biết thấu đáo và
sáng suốt trái tim con người. Là một người Công Giáo sâu sắc,
nhờ hoạt động trí thức, nhờ sự thánh thiện bản thân, một
sự thánh thiện đã đạt tới đỉnh cao nhất, ông đã rút tỉa
được sức mạnh để có thể phát biểu lại toàn bộ truyền
thống Kitô Giáo trong một hệ thống có cơ cấu trong đó có cả
những chủ trương cốt yếu của tư tưởng hiện đại”.
Tuy nhiên, phải đợi đến Đức Gioan XXIII, việc phục hồi danh
dự cho Rosmini mới có được những bước tiến dứt khoát. Cuốn
tiểu sử về ngài, do Peter Hebblethwaite viết, ghi nhận rằng mùa hè
năm 1961, lúc đang chuẩn bị cho Công Đồng Vatican II, Đức Gioan
XXIII đã tái khám ra Rosmini và đã trích dẫn tác giả này trong
Nhật Ký của mình (3). Năm 1905, lúc còn là sinh viên, Đức Gioan
XXIII từng gặp và làm bạn với TGM Milan là Đức Cha Ferrari, một
người vốn bị Đức Piô X coi là nguy hiểm vì đã phục hồi các
ý tưởng của Rosmini về Giáo Hội như đã được phát biểu trong
cuốn Năm Thương Tích Của Giáo Hội Thánh Thiện. Lúc lên ngôi giáo
hoàng, Đức Gioan XXIII đã cho phép mở án phong chân phước cho vị
TGM này. Bởi thế, người ta dễ dàng nhìn ra đường dây thông đạt
giữa Rosmini, Đức Gioan XXIII và Vatican II, một đường dây sau đó
đã nhập thân các khát vọng của Rosmini muốn có sự liên kết
gần gũi hơn giữa giáo sĩ và giáo dân, giữa phụng vụ và ngôn
ngữ bình dân, và nhất là tự do tôn giáo. Đức Hồng Y Saraiva
Martins, Bộ Trưởng Bộ Phong Thánh, và là đại diện của Đức Bênêđíctô
XVI trong lễ phong chân phúc cho Antonio Rosmini, cũng coi Rosmini là
tiền hô của Dignitatis Humanae.
Vị giáo hoàng kế tiếp, tức Đức Phaolô VI, cũng đã thấu đáo
Rosmini lúc còn làm TGM Milan. Bởi thế, khi lên ngôi giáo hoàng, ngài
đã chọn một linh mục thuộc Tu Hội Bác Ái tại nhà mẹ ở Porta
Latina làm cha giải tội. Nhưng chính học giả của tu hội này là
Don Clemente Riva, người được Đức Phaolô VI cử làm Tham Tán cho
Phòng Báo Chí Công Giáo tại Công Đồng Vatican II, mới là người
thiết lập được những mối liên hệ thiết yếu với hai vị giáo
hoàng Gioan Phaolô I và Gioan Phaolô II, những mối liên hệ cho phép
việc phục hồi danh dự của Rosmini tiến nhanh. Câu truyện liên
hệ giữa học giả Riva và Đức Gioan Phaolô I quả là do Chúa quan
phòng. Lúc dọn tiến sĩ tại ĐH Lateran ở Rôma, Don Riva chọn
luận án sau đây: “Nguyên Ủy của Tri Hồn Theo Rosmini” (Origine
of Intellective Soul According to Rosmini). Mục đích là giải thích đúng
đắn các mệnh đề 20-24 trong 40 mệnh đề bị cấm của Rosmini.
Giải đáp ấy cũng là lời giải đáp đối với một luận án
tiến sĩ tương tự khác được đệ nạp tại ĐH Gregoriana, của
Albino Luciani, Đức Gioan Phaolô I tương lai. Luciani không những bênh
vực việc lên án 40 mệnh đề trên mà còn cho rằng lệnh cấm này
không thể nào đảo ngược được. Tuy nhiên, năm 1975, Don Riva được
Đức Phaolô VI cử làm giám mục phụ tá cho Rôma. Bởi thế, khi trình
diện với Đức Gioan Phaolô I lúc mới lên ngôi, Đức Cha Riba bẽn
lẽn thưa với vị tân giáo hoàng rằng mình là giám mục phụ tá
cho một giáo hoàng vốn có ý kiến dị biệt về Rosmini. Nhưng lạ
lùng thay, mấy hôm sau, chính vị giáo hoàng này đã nói tới
Rosmini “như một linh mục yêu mến Giáo Hội, chịu đau khổ vì
Giáo Hội, một người học rộng, có đức tin Kitô Giáo tinh
tuyền, một bậc thầy của khôn ngoan triết lý và luân lý, một
người nhìn ra những trì trệ cũng như các thiếu sót về rao
giảng và mục vụ của Giáo Hội. Tôi muốn tìm dịp để nói về
Antonio Rosmini và công trình của ông, các công trình mà tôi đã đọc
lại cẩn thận. Trước nhất, tôi sẽ gặp các cha Tu Hội Bác Ái
để làm hòa. Lúc công bố luận án tiến sĩ của tôi về “Nguyên
Ủy của Linh Hồn Con Người Theo Antonio Rosmini”, một số các cha
ấy không nhất trí với lối suy nghĩ và phân tích của tôi. Tôi
muốn sắc lệnh tín lý Post Obitum mà Văn Phòng Thánh dùng để
kết án bốn mươi mệnh đề rút ra từ các công trình của Rosmini
được duyệt lại. Chúng ta không cần phải vội vã làm việc đó,
nhưng chúng ta nhất định sẽ làm”. Rất tiếc, sau đó ít ngày,
Đức Giao Phaolô I băng hà, như ta đã thấy.
Sau đó, nhiệm vụ làm giám mục phó của Rôma đã giúp Đức Cha
Riva tiếp xúc thường xuyên với Đức Gioan Phaolô II. Nhờ thế, ngài
có nhiều cơ hội nói với đức giáo hoàng về Rosmini. Là một người
ưa nghiên cứu về triết học, Đức Gioan Phaolô II, dù lúc mới lên
ngôi, không biết nhiều về Rosmini, nhưng nhờ đọc Rosmini, ngài khám
phá thấy một tinh thần tìm kiếm chân lý giống như ngài và là
một nguồn mà ngài có thể dựa vào để phục hồi triết học
trở lại địa vị chủ yếu trong tư duy hiện đại. Bởi thế, ngài
cho thiết lập một ủy ban để tái sét các công trình của
Rosmini. Kết quả là năm 1994, ngài chính thức mở đường cho
việc phong chân phúc cho Rosmini và năm 1998, sau lễ kỷ niệm 200 năm
ngày sinh của ông, ngài đã không tiếc lời ca ngợi ông trong thông
điệp Fides et Ratio như đã trình bày. Và sau đó, ngài còn
gửi một thông điệp cho Tu Hội Bác Ái lúc đó đang hội họp
tại Rôma. Trong thông điệp này, ngài viết: “Vị sáng lập của
anh em đã đứng vững vàng trong truyền thống trí thức vĩ đại
của Kitô Giáo là truyền thống vốn biết rằng không hề có sự
chống chọi nhau giữa đức tin và lý trí, nhưng điều này đòi
phải có điều kia. Thời của ngài là thời mà diễn trình phân
rẽ lâu dài giữa đức tin và lý trí đã đạt đến đỉnh cao,
cả hai xem nhau như kẻ tử thù. Tuy nhiên, Rosmini… biết rằng đức
tin mà không có lý trí sẽ úa tàn thành thần thoại và mê tín, và
bởi thế, ông bắt tay vào việc áp dụng các khả năng tri thức
rộng lớn của mình không những vào thần học và linh đạo, mà còn
vào cả những lãnh vực khác nhau như triết học, chính trị,
luật pháp, giáo dục, khoa học, tâm lý và nghệ thuật, không
thấy trong chúng bất cứ đe dọa nào mà chỉ là những đồng minh
thiết yếu của đức tin… Dù là một người rõ ràng thuộc thế
kỷ 19, Rosmini vượt quá thời và nơi của ông để trở thành nhân
chứng phổ quát mà đến nay, giáo huấn vẫn còn thích đáng và
hợp thời”.
Theo nhận định của Royden Hunt, các lời lẽ trên thực ra không
thấm thía gì so với lời lẽ của Đức Gioan Phaolô II trong Fides
et Ratio. Có thể nói: người ta không thể hiểu tư tưởng của
thông điệp này nếu không tham chiếu tư tưởng của Rosmini. Thực
vậy, thông điệp này là lời tái khẳng định cả Vatican I lẫn
Vatican II khi cho rằng không thể có sự phân rẽ giữa đức tin và
lý trí, giữa lý tính và mạc khải. Thông điệp cũng nhấn mạnh
tới địa vị xây nền của triết học trong việc con người đi tìm
sự thật.
Giống Rosmini, Đức Giáo Hoàng phác họa các nguyên nhân lịch sử
và xã hội từng tạo ra sự phân rẽ ngày càng sâu rộng giữa đức
tin và lý trí kể từ thời Phong Trào Ánh Sáng tại Âu Châu. Một
trong các nguyên nhân ấy chính là sự phân mảnh triết học đến
đánh mất vai trò làm nguồn khôn ngoan và hiểu biết của mình. Ngài
ghi nhận sự xuất hiện của chủ nghĩa hoài nghi phổ quát đối
với các nền tảng của triết học và việc mất tin tưởng vào
khả năng của nó trong việc giải quyết các vấn nạn do thế
giới kỹ thuật tạo ra. Sự xuống dốc của triết học cũng làm
suy yếu vị thế thuận lý của mọi niềm tin tôn giáo cũng như tính
khả tín của thần học nói chung về phương diện tri thức.
Ngay ở phần nhập đề, Đức Giáo Hoàng cũng đã dùng những ngôn
từ khiến người ta phải nhớ tới Rosmini để nói tới ngữ
cảnh cho mọi cuộc tìm kiếm triết học. Ngài viết: “Thúc đẩy
bởi ý muốn tìm ra chân lý tối hậu của hiện hữu, con người tìm
cách thủ đắc các yếu tố phổ quát của nhận thức, tức các
yếu tố giúp họ hiểu chính họ tốt hơn và tiến bộ trong việc
tự thể hiện chính mình… Dù thời gian có thay đổi và nhận
thức có gia tăng… ta vẫn có thể biện phân được cốt lõi cái
hiểu thông sáng của triết học trong lịch sử tư tưởng như
một toàn bộ”.
Sau đó, Đức Giáo Hoàng trình bày bản chất cái hiểu thông sáng
ấy cũng như mối liên hệ của nó với lý tính. Ngài dùng những
ngôn từ hết sức đặc trưng liên quan tới nền tảng từng được
Rosmini nhận ra cho triết học trong trực giác về hữu thể. Thí
dụ, Đức Giáo Hoàng nói tới ‘nguyên tắc không mâu thuẫn, nguyên
tắc cùng đích và nguyên tắc nguyên nhân cũng như ý niệm coi con
người là chủ thể tự do và thông minh có khả năng nhận biết
Thiên Chúa, sự thật và sự thiện’. Ngài còn cho rằng, ‘một
khi lý trí thành công trong việc trực giác được và phát biểu
được các nguyên tắc phổ quát của hữu thể và từ chúng rút
được các kết luận đúng đắn có tính gắn bó cả về luận lý
lẫn đạo đức, thì lúc đó nó xứng đáng mang danh lý trí đúng
đắn hay orthos logos’.
Đối với Đức Gioan Phaolô II, muốn sử dụng lý trí đúng đắn
ấy, triết học phải vượt quá các dữ kiện thực nghiệm để
đạt tới điều tuyệt đối, tối hậu và nền tảng trong cố
gắng đi tìm Sự Thật… Thách đố lớn nhất của thời nay là
chuyển dịch từ hiện tượng tới nền tảng. Suy tư suy lý phải
vào sâu cốt lõi linh thiêng và cái cơ sở phát sinh ra cốt lõi
linh thiêng ấy… vì… con người tạo thành điểm gặp gỡ ưu
việt với hữu thể và do đó với cuộc tìm kiếm siêu hình.
Tuy nhiên, theo Hunt, đoạn có ý nghĩa nhất trong thông điệp liên
quan tới triết học của Rosmini là số 66. Trong số này, Đức
Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng không có sự đóng góp của triết
học, thì thực tế ta không thể thảo luận các vấn đề thần
học, như việc dùng ngôn ngữ nói về Thiên Chúa, các mối liên
hệ bản vị giữa Thiên Chúa Ba Ngôi, hành động sáng tạo của Chúa
trong thế giới, mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, hay
bản sắc Chúa Kitô như Thiên Chúa thật và người thật. Tóm
lại, thần học tín lý có tính suy lý giả thiết và hàm nghĩa
phải có một triết học về hữu thể nhân bản, về thế giới và
căn để hơn nữa về chính hữu thể, một triết học phải có
sự thật khách quan làm nền tảng.
Rõ ràng là Đức Giáo Hoàng khó có thể có những chủ trương như
thế về triết học và thần học nếu không dựa vào các nguồn
đã có sẵn. Thực vậy, phần lớn những điều ngài viết đều
nhắc ta nhớ rất rõ nền triết học của Antonio Rosmini. Chính vì
thế, ngài đã nhắc tới ông một cách đặc biệt trong thông điệp
này. Và chính thông điệp này đã trực tiếp dẫn tới Ghi Chú
(hay Thông Cáo) của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, chính thức giải
oan cho ông và mở đường cho việc tôn phong ông lên hàng chân phúc
của Giáo Hội.
Ghi chú:
(1) Sandro Magister, Blessed Liberty: The Posthumous Miracle of Antonio Rosmini
(2) Royden Hunt, An Introduction to the Life and Thought of Antonio Rosmini
Vũ Văn An
VietCatholic News
|