Tinh thần im lặng theo chân phúc Rossmini
Trên giường bệnh tại Stresa, chân phúc Rosmini được người
bạn thân là Alessandro Manzoni, tác giả I Promessi Sposi, cuốn
tiểu thuyết nổi tiếng nhất tại Ý lúc đó, năng lui tới thăm
viếng. Một ngày kia, Manzoni hỏi chân phúc muốn nhắn nhủ gì cho
những người ở lại, ngài chỉ nói vắn tắt: “Hãy giữ im
lặng”. Mấy lời này không phải là những lời tình cờ, mà nói
lên cả một thái độ, một lối sống mà chân phúc đã biến thành
của riêng mình từ lúc còn trẻ và không ngừng nhắn nhủ những
người được ngài chăm sóc về tâm linh.
Chúng ta, những người hằng ngày điếc tai với thế giới hiện
đại, không biết có nhận ra giá trị lời khuyên của người
vừa được Đức Bênêđíctô XVI nâng lên hàng chân phúc năm 2007
sau hơn 100 năm bị liệt vào hàng gần như lạc giáo (Xem
VietcatholicNews, 9 Jul 2010)? Ngay Stresa thôi cũng nói với ta nhiều điều
về thế giới ồn ào hiện nay. Cái làng đánh cá trầm lặng trong
thế kỷ 18 ở bờ nam của Hồ Cả (Lago Maggiore), mà hồi chân phúc
Rossimi còn sống, cảnh thanh bình êm ả chỉ bị khuấy động bởi
những tiếng lốp cốp của cỗ xe ngựa chạy qua đường Simplon
tới Domodossola và Thụy Sĩ, thì nay đã trở thành một địa điểm
du lịch hiện đại cho hàng ngàn du khách Y và du khách Âu Châu. Bình
thường dân số Stresa chỉ là 3,000 dân. Nhưng trong những tháng hè
và dịp đặc biệt, số dân ấy thường xuyên lên đến 30,000 người.
Nữ Hoàng Victoria, trước đây một thế kỷ, từng đến nghỉ mát
tại Baveno, ngôi làng kế cận Stresa, đã làm cho vùng này trở thành
nổi tiếng. Từ đó, và nhất là từ Thế Chiến II, tại Casa
Bolongaro, nơi chân phúc Rossmini qua đời vào ngày 1 tháng 7 năm 1855,
đã mọc lên đủ loại khách sạn. Cảnh ồn ào, đôi lúc đến điếc
tai, là chuyện thường tình suốt ngày suốt đêm trong nhiều tháng
mỗi năm. Thử hỏi, liệu thinh lặng có còn dính dáng gì tới
một bầu khí như thế nữa hay không, bầu không khí khá điển hình
trong thời đại ta?
Nếu Stresa đã đặt ra câu hỏi biểu tượng, thì nó cũng cho ta câu
trả lời biểu tượng. Giữa cảnh ồn ào điếc tai, Casa Bolongaro,
nay là Trung Tâm Quốc Tế Nghiên Cứu Rossmini, vẫn duy trì được
sự thanh bình và thư thái của nó. Với mảnh vườn riêng, nằm
sau con đường chính, và gần như bị che khuất bởi hai cây tuyết
tùng khổng lồ, Casa có được nét trầm lặng, duyên dáng khác xa
những người láng giềng to lớn và ồn ào. Quan sát gần hơn, nét
trầm lặng và duyên dáng ấy càng gia tăng hơn nữa. Thư viện
khổng lồ, nét tinh tế của những hàng cột đỡ mặt tiền căn
nhà và bầu khí nói chung hết sức thanh thản của nó quả là
một tương phản rõ nét với khu vực chung quanh. Nhưng dù khác
biệt, nó vẫn là một thành phần của Stresa, một thế giới trong
một thế giới. Có thể nói, nó là trái tim nội thẳm của cuộc
hiện sinh ngoại diện của thị xã. Nó là câu trả lời hoàn hảo
nhất cho câu hỏi về tính hợp thời và ý nghĩa của im lặng ở
thời đại ta, và tóm lược được chiều hướng mà chân phúc
Rossmini muốn để lại cho ta về ý nghĩa bên trong của sự im
lặng.
Đối với chân phúc Rossmini, sự im lặng có một tầm quan trọng
hết sức lớn lao. Giống mọi người khác cùng sống với ngài ở
Calvario di Domodossola trong những ngày đầu mới lập Tu Hội Bác Ái,
chân phúc chọn một câu thánh kinh rất có ý nghĩa, ghi ở lối vào
phòng mình. Câu ấy là: Bonum est praestolari cum silentio salutare Dei [Im
lặng chờ đợi ơn cứu độ của Thiên Chúa thực là điều tốt]
(Ai Ca 3: 26). Những chữ này tóm lược hết các hoài mong và hy
vọng của ngài, và làm ta nhớ tới các câu khác trong Thánh Kinh:
“Sức mạnh của ngươi nằm trong im lặng và hy vọng” (Is 30:15)
và “Hãy thinh lặng, và biết rằng ta là Thiên Chúa” (Tv 46:10).
Tuy nhiên, việc chân phúc Rossmini chấp nhận và yêu sự thinh lặng
không bắt đầu tại Calvario. Lúc 17 tuổi, ngài đã viết một bài
tựa là “Ngày Cô Tịch” (Il Giorno di solitudine). Trong bài độc
thoại với linh hồn này, ngài nói tới việc cư ngụ với chính mình
và Thiên Chúa, rồi kết luận: “Hãy chọn thinh lặng chống lại
cái ồn ào của phù hoa. Cái ồn ào này làm điếc lỗ tai của trí
hiểu và trái tim, và hãy tiến tới việc thích lắng nghe lời Chúa
nói, một cách cẩn trọng trong thinh lặng”.
Thành thử ngay lúc đó, Rossmini đã cảnh giác trước các nguy hại
của sự ồn ào, vì nó chỉ làm điếc thêm chứ không hề cổ vũ
sự hiểu biết. Ngài cũng đã nêu rõ mục đích của im lặng là
để dễ dàng lắng nghe Lời Chúa. Thứ cô tịch này hết sức
chủ yếu đối với ngài, và theo ngài, đối với mọi Kitô hữu,
như ngài từng nói trong “Các Phương Châm Đạt Sự Hoàn Thiện
Kitô Giáo” (Maxims of Christian Perfection): “Môn đệ Chúa Giêsu Kitô
phải luôn sống trong cõi cô tịch nội tâm, trong đó, để mọi
sự khác qua một bên, họ sẽ tái khám phá ra một mình Thiên Chúa
và chính linh hồn mình. Môn đệ Chúa Giêsu Kitô phải luôn có Thiên
Chúa hiện diện với mình, thờ lạy sự cao cả của Người; và
cả chính linh hồn họ nữa, họ phải mỗi ngày mỗi hiểu rõ các
yếu đuối và tình trạng như không của nó”.
Tuy nhiên, sự thanh tĩnh mà chân phúc Rossmini thèm muốn và coi như
chủ yếu đối với cuộc sống Kitô hữu không phải là sự im
lặng hay cô tịch bề ngoài. Ngài chú tâm tới sứ điệp bên trong
và thiêng liêng của nó. Ngài nói rõ khía cạnh đó khi mô tả các
phương tiện cần có giúp Kitô hữu đạt được cùng đích của mình.
Ngài nói như sau về cuộc sống cô tịch của ngài tại Calvario khi
sống suốt mùa chay ở đó lần đầu tiên (năm 1828): “Cô tịch
rất thân thiết đối với tôi vì nó giúp ta đi sâu vào tư duy
của mình và tạo ra quanh ta một xã hội tốt hơn xã hội loài người.
Nhưng không phải núi non cùng thung lũng kia, không phải cái thứ bình
an và im lặng kia chiếm hữu tâm hồn tôi… Đối với chúng ta, các
nơi chốn vật lý quá chật hẹp; nơi chốn của ta chính là Thiên
Chúa. Ở nơi ấy, chúng ta cảm thấy thoải mái, nhưng quam arcta
est via quae ducit ad vitam! [con đường dẫn tới sự sống sao mà
hẹp thế!]. Khoảng rộng bao la, nơi niềm vui tâm hồn mở rộng đến
vô biên, sau một dải đất hẹp (Epistolario Ascetico, vol. 1, p.
248).
Các tu sĩ của ngài, những người được mời gọi sống bậc
cầu nguyện và sau đó thực hành mọi điều kiện cần thiết cho
bậc sống ấy, cũng không coi sự im lặng bề ngoài như lối sống
cần thiết. Hiến pháp của Tu Hội Bác Ái nhấn mạnh rằng:
“Bậc sống chiêm niệm được ta chọn lựa trước nhất đòi ta
phải yêu thích sự cô tịch thánh thiện nhờ đó ta có thể chú tâm
tới Chúa một cách thiết tha và không ngừng, bao lâu sự yếu hèn
của ta cho phép”.
Ấy thế nhưng, khi trình bày và giải thích cho Thánh Maddalena di
Canossa về kế hoạnh lập Tu Hội Bác Ái, chân phúc Rossmini khẳng
định rằng: “Đây không phải là lúc trốn chạy, nhưng tranh đấu…
Ngay các tu sĩ, những người tự ý rời bỏ thế gian, cũng sẽ hành
động một cách không hoàn hảo nếu cùng một lúc họ không chịu
từ bỏ sự im lặng ưa thích của chốn thâm cung tu viện để giúp
đỡ anh chị em mình khi họ cần đến mình. Ngày nay, việc hoàn toàn
rời bỏ thế gian phải được hiểu theo nghĩa tinh thần, như các
tông đồ vốn hiểu. Ta không thể hài lòng với sự rời bỏ bề
ngoài”. Chân phúc cũng nói tới “việc không ngừng tĩnh tâm tinh
thần ngay giữa các bận bịu bên ngoài”.
Ta cũng cần nhấn mạnh điều này: lời mời gọi im lặng được
ngỏ với mọi người. Vì các lời trích từ “Các Phương Châm Đạt
Sự Hoàn Thiện Kitô Giáo” vốn nhằm nói với mọi Kitô hữu:
“Mọi Kitô hữu, mọi môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, bất kể
bậc sống và điều kiện sống ra sao, đều được kêu gọi sống
hoàn thiện: vì tất cả đều được kêu gọi sống Phúc Âm, vốn
là luật của hoàn thiện; và Thầy Chí Thánh từng nói với mọi
người như sau: ‘Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời của các
con là Đấng Hoàn Thiện”.
Ấy thế nhưng, một lần nữa, ngài cũng viết: “Người Kitô
hữu khiêm nhường và sốt sắng, người tự ý chỉ chọn cuộc
sống ẩn dật mà họ mộ mến vì đức khiêm nhường thành thật,
rất có thể phải pha mình vào cuộc sống hoạt động. Nếu ý Chúa
muốn, họ còn có thể phải lao mình vào biển đời của lo toan và
rắc rối, của kinh doanh và nghiệp vụ, cả quan yếu lẫn không
quan yếu, cả đáng kính lẫn khinh bạc, để phục vụ người lân
cận, theo thứ bậc Chúa muốn họ đi để đến với Người”.
Cho nên, theo nhận định của chân phúc Rossmini, sự im lặng bên
trong phải được coi là chủ yếu đối vời đời sống người
Kitô hữu; sự im lặng bề ngoài phải được duy trì bao xa có
thể, nhưng sự im lặng bên trong mới nói lên tinh thần từ bỏ mình
của người Kitô hữu trước tiếng gọi của Thiên Chúa.
Các lý do phải giữ im lặng bên trong
Đâu là động lực của sự im lặng bên trong? Ta có thể gọi động
lực đầu tiên là nhu cầu ‘im lặng hữu thể’ (ontological
silence). Nói cách khác, chính hữu thể của ta trong tư cách tạo
vật đòi ta phải im lặng hoàn toàn, phải tùy thuộc hoàn toàn, trước
Đấng Tạo Hóa. Trước thánh nhan của Người, mà ta luôn luôn ở
trước thánh nhan của Người, ta không thể làm gì khác ngoại
trừ chờ lời Người phán. Với cái nhìn này, ta thấy rõ sự hư
không của ta, nhìn nhận sự tùy thuộc hoàn toàn của ta, một sự
tùy thuộc chính là sự hiện hữu của ta trong tư cách tạo vật.
Ta hãy nghe lời phát biểu của Thánh Tôma Aquinô: “Sáng thế không
phải là sự thay đổi, nhưng là chính sự tùy thuộc của hữu
thể tạo vật vào nguyên lý đã dựng nên nó” (Contra Gentes,
II, c. 18).
Ta được mời gọi giữ im lặng chính vì ta tùy thuộc vào Đấng
đã dựng nên ta. “Thiên Chúa phán…và liền có như vậy” (St
1:6-7). Sức mạnh của lời Chúa tương phản hẳn với lời vô
hiệu của ta. Nhiều khi ta bảo: “như nói với đầu gối”. Sự
im lặng của ta trước Đấng Tạo Hóa sẽ bị bẻ gẫy duy bởi
những ồn ào lộn xộn do sự độc lập của tội lỗi mang lại.
“Hãy nghe đây, hỡi nhà Israel, Chúa và là Thiên Chúa của ngươi
là Chúa duy nhất…” (Đnl 6:4). Nhưng làm sao có được việc nghe
nếu không có sự im lặng tùy thuộc để lắng nghe.
Động lực thứ hai khiến ta im lặng bên trong là nhu cầu ‘im
lặng của đức tin”. Ta quả là tạo vật, nhưng là tạo vật
tội lỗi, nghĩa là tự mình không còn khả năng tiếp xúc với Đấng
Thiên Chúa đã dựng nên mình. Ta cần ơn đức tin cứu rỗi:
“Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh
quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ
Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Chúa
Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu
của Người cho những ai có lòng tin” (Rm 3: 21–25). Thời khắc
cứu rỗi được đánh dấu trong Cựu Ước bằng sự im lặng. Lúc
Pharaô gần đuổi kịp người Do Thái đang trốn chạy, lời của Môsen
nói với dân của ông thật đơn giản: “Chúa sẽ chiến đấu cho
các ngươi, các ngươi chỉ cần thinh lặng” (Xh 14:14). Hay câu sau
của Sách Ai Ca mà ta đã trích dẫn: “Im lặng chờ đợi ơn cứu
độ của Thiên Chúa thực là điều tốt” (Ai Ca 3: 26).
Còn trong Tân Ước, lệnh truyền còn rõ ràng hơn nữa: muốn cứu
rỗi phải tiếp nhận Lời Chúa bằng đức tin. “Ta đang sống
trong thời sau hết lúc Thiên Chúa nói với ta qua Con của Người”
(Dt 1:2) và ta không thể bước vào thời của ta nếu ta không tiếp
nhận Ngôi Lời nhập thể: với mọi người tiếp nhận Người, Người
ban quyền trở nên con cái Thiên Chúa; là những người sinh ra không
phải do máu cũng không do ý muốn xác thịt, hay ý muốn của người
đàn ông, nhưng do Thiên Chúa” (Ga 1:11).
Nhưng, kẻ vừa được thụ thai đâu có nói lời nào, dù họ đã
nhận được khả năng nói. Việc họ chấp nhận khả năng này
chỉ diễn ra trong im lặng, trong việc họ tiếp nhận Ngôi Lời, Đấng,
khi hiến mạng sống cho họ, sẽ nói ở trong họ và cứu vớt
họ. Chân phúc Rossmini diễn tả điều ấy rất minh bạch, súc tích
và đẹp đẽ khi ngài cầu nguyện như sau: “Lạy Cha, khi Con Cha
cầu nguyện trong con, là con cầu nguyện cùng Cha”. Chân phúc không
có ý nói ngài muốn dùng lời cầu nguyện của Chúa Con chỉ như
một điển hình. Ngài muốn nói như Thánh Augustinô rằng “Khi chúng
ta kêu lên: ‘Ápba! Cha ơi!’ thì chính Chúa Thánh Thàn chứng
thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa và
là đồng thừa kế với Ðức Kitô” (Rm 8: 15–17).
Động lực thứ ba khiến ta im lặng nội tâm là nhu cầu thực hành
việc hãm mình. Việc này, với ơn Chúa, sẽ cho ta cơ hội lắng
nghe Lời Chúa hoàn hảo hơn. Ta có thể gọi nó là ‘im lặng tu
đức’ (ascetical silence), được chân phúc Rossimni tóm tắt như
sau: “Để có được thói quen tĩnh tâm tinh thần thường xuyên,
điều cần là phải cố gắng nhiều ngay từ lúc đầu và phải cương
quyết khổ chế bản thân trong bất cứ điều gì làm tâm trí mình
sao lãng và đi ngược lại trạng thái tĩnh tâm và nhớ đến Chúa;
ta phải không ngừng xin Chúa Giêsu Kitô ban cho ta ơn đó; chỉ nhờ
kiên tâm cầu nguyện sốt sắng, tinh thần ta mới ổn định và
sẵn sàng đạt được tình trạng thường xuyên an tịnh trong Chúa,
một sự an tịnh sẽ không bao giờ mất đi vì các hoạt động ở
bên ngoài, nếu ý chí ta không sa vào điều xấu. Hãy nhớ, sức
mạnh mà ta dùng để thông đạt với Chúa và kết hợp với Người
là một sức mạnh khác với mọi sức mạnh ta dùng để hoạt động
ở bên ngoài. Bởi thế, khi người ta đạt tới một trạng thái
chiêm niệm và kết hợp nào đó rồi, thì dù họ hành động
bằng các sức mạnh vốn điều khiển các hoạt động bên ngoài
đi nữa, các sức mạnh ấy cũng không gián đoạn được sức
mạnh tối cao từng đem lại sự an tịnh và thư thái trong Chúa”.
Nhưng điều đó không ngăn cản người thánh thiện “tiến hành các
hoạt động bên ngoài của họ một cách tốt đẹp hơn, cũng như
các hoạt động bên ngoài kia cũng không khiến họ sao lãng việc
thông đạt nội tâm, đầy yêu thương với Chúa. Bình thường,
trạng thái tốt đẹp ấy chỉ có thể đạt được bởi các linh
hồn trung tín, bền đỗ, ngay từ đầu, biết nghiêm túc tự khổ
chế và không ngừng chuyên chăm cầu nguyện”.
Khía cạnh tu đức có tính nhiệm nhặt này cần được nhấn
mạnh nếu ta muốn nắm được toàn bộ giáo huấn của chân phúc.
Tuy nhiên, trước khi làm được việc đó, ta cần nắm vững ta đang
đương đầu với điều gì. Loại khổ hạnh đang bàn ở đây,
trong cuộc sống hằng ngày, thường được thực hành ở một bình
diện tầm thường. Điều này sẽ được bàn sau. Nhưng nhờ ơn Chúa,
con người cũng có thể đạt được một bình diện rất cao trong
đó việc cầu nguyện có tính huyền nhiệm tự biến thành một hy
sinh tột đỉnh. Đó là điều từng được chân phúc Rossmini đề
cập tới một cách chi tiết. Ngài viết: “Tại sao ta thấy việc
cầu nguyện lại ít được con người thế tục biết đến? Tại
sao lại có quá ít Kitô hữu đạt được đỉnh cao nhất của nó?
Trong hành vi nâng tâm hồn lên Chúa này, người yêu tìm thấy
những niềm vui hết sức tuyệt vời, niềm sảng khoái trọn vẹn,
ánh sáng chói lọi nhất, sự sống mạnh mẽ nhất, sự gần gũi
thân mật với Chúa nhất. Thế thì tại sao lại hiếm hoi như
thế? Đơn giản chỉ vì ai muốn đạt tới đỉnh cao của nó,
phải từ bỏ hoàn toàn cái bản nhiên của mình, phải từ bỏ chính
mình và lao thẳng vào thẩm cung người khác, tức, thẩm cung lòng
Chúa. Hành động ấy thực sự là một kiểu tự tha hóa tinh thần
mình. Ở đây, ta không tìm kiếm điều gì, không thấy bất cứ
tạo vật nào. Ở đây, mọi trợ giúp đến từ các hình ảnh
khả giác đều chấm dứt, dù cách này vẫn là cách suy nghĩ thông
thường của ta. Ở đây, ta tìm kiếm Thiên Chúa, một tìm kiếm hoàn
toàn khác với việc tìm kiếm các sự thiện trong thiên nhiên; ở
đây không có hình ảnh nào có thể mô tả được Sự Thiện này,
không một sự tương tự nào trong toàn vũ trụ có thể làm ta mường
tượng được. Việc kết hợp yêu thương của linh hồn với Thiên
Chúa, mà ta coi là lời cầu nguyện cao nhất khi nó đạt được độ
ngọt ngào nhất, đòi ta phải xa lánh một cách phổ quát, một cách
trọn vẹn mọi sự vốn thoả mãn và cần thiết đối với bản tính
nhân loại của ta; nó đòi ta phải quên, phải từ bỏ từ bên
trong bất cứ điều vui thú nào, bất cứ điều gì vốn được các
quan năng nhân bản tìm kiếm, bất luận ở dưới đất hay ở
tầng trời vật lý, và sau cùng phải từ bỏ chính mình… Các
linh hồn quảng đại cần phải hy sinh biết bao mới có thể nếm
được một phần Đấng Yêu Dấu, cái phần đã được nhượng
cho, được ban phát ở đời này, và một phần Đấng Thần Linh,
Đấng mà không một phàm nhân nào đã thấy hoặc đã nếm mà thoát
chết: “Ngươi không thể thấy mặt Ta; vì không một người nào
thấy Ta mà còn sống sót”. Vâng đúng thế, việc nâng cao linh
hồn cầu nguyện, linh hồn chiêm niệm, cắt đứt khỏi mọi giác
quan xác thân, quên hết thời gian và không gian và mọi thụ tạo,
và chỉ còn chăm chăm, bất động nhìn vào một mình Thiên Chúa thì
có khác chi một sự chết, chết thật rồi! Bởi thế, nếu muốn
tận hiến cho việc thể hiện tối hậu tấm tình yêu hân hoan
nhất nhưng đầy chiến đấu và dằn vặt này, chắc chắn ta
phải có quyết tâm anh hùng” (La Dottrina della Carità,
200–1).
Nhưng như đã nói, trong cuộc sống hằng ngày, ta chỉ nên bắt
đầu xem sét thực hành sự im lặng ở một bình diện thấp hơn
thế. Nhiều người cho rằng: trong hoàn cảnh hiện nay, những gì
được chân phúc Rossmini nói đến từ hơn thế kỷ rưỡi trước
đây về sự cần thiết của im lặng bây giờ còn cần thiết hơn
nữa. Điều này không biết có đúng như thế không hay vì ngụp
lặn trong cảnh náo nhiệt ồn áo quen rồi, nên ta đã quên khuấy
cả nhu cầu giữ thinh lặng, nhu cầu im lặng tâm hồn để lắng
nghe Lời Thiên Chúa? Bạn hãy nghĩ lại những gì đã nghe và đã
thấy trên truyền thanh và truyền hình gần đây. Hãy tự hỏi đã
đọc gì trên nhật báo hôm nay. Hãy ôn lại bất cứ cuộc thảo
luận nghiêm túc nào trong tuần. Bạn đã tiêu phí biết bao thời
gian cho những truyện vô bổ mà đáng lý ra nên dành cho sự im
lặng. Và hình như ta thấy điều ấy rất bình thường!
Câu hỏi quan trọng hơn là: “Tôi có thể sống mà không cần
những điều trên hay không?” hay “Tôi có thể sống với Chúa và
với bản thân mình hay không?” Những câu hỏi như thế rất quan
trọng vì nó giúp ta hiểu rõ vấn nạn thực sự của thế giới
ngày nay nói chung. Vậy thử hỏi: tôi có thể sống với chính
bản thân mình hay không? Hỏi như thế, ta thấy câu trả lời sẽ
rõ ràng ngay, và giải thích được tại sao ta lại trốn chạy sự
im lặng. Ta sử dụng kỹ thuật hiện đại, tức các phương tiện
truyền thông, cách này hay cách khác, để trốn chạy chính mình.
Ta sẽ không vào sa mạc, theo kiểu nói của Thánh Kinh, vì ta không
tin sẽ tìm được điều gì giá trị ở đấy. Thái độ ấy là
thái độ duy nhân bản hiện nay, và đức tin cần đánh đổ thái
độ này bằng cách chứng tỏ cho người ta thấy: ở cõi cô tịch
và im lặng của sa mạc, có điều gì đó không phải chỉ là cái
bản ngã tùy thể của ta. Ở đó, ta tìm thấy sức mạnh cứu
rỗi của Thiên Chúa.
Đối với mọi cuộc sống trọng tinh thần, ta phải nhấn mạnh
tới sa mạc như bước minh nhiên đầu hết và như thái độ mặc
nhiên không bao giờ chấm dứt. Sa mạc là một hằng số trong Thánh
Kinh và là một nét lớn trong cuộc sống của chính Chúa nhập
thể. Nó không thể bị triệt tiêu trong cuộc sống các môn đệ
Người bất kể bậc sống hay điều kiện sống của họ ra sao. Chân
phúc Rossmini nói rõ điều này trong một lá thư gửi một thiếu
phụ sống ngoài đời: “Có điều này chắc chắn. Với sự trợ
giúp của Thiên Chúa, bà có thể tạo ra sự cô tịch ngay trong tâm
hồn bà và sống trong đó với Người [Chúa] bằng đức tin y hệt
như trong tu viện kín. Cô tịch trong tâm hồn! Điều này qúy giá hơn
biết bao so với bức tường tu viện. Ở đấy, ngay trong chính mình,
bà hãy dựng lên những bức tường lửa mà chỉ Thánh Thần Thiên
Chúa, Đấng vốn là lửa, mới có thể đi qua. Những bức tường
ấy chính là tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Khi tình yêu
này tăng tiến trong tâm hồn đến mức trở thành chủ động trong
ta, nó sẽ khiến ta chán ghét sự vật trần thế, dù là vinh dự và
vui thú bao nhiêu chăng nữa…Nó biến chúng trở thành hình khổ đối
với ta vì chúng chính là thế nếu so sánh với những điều ở trên
trời”.
Thoạt đầu, sa mạc là điều khó khăn vì ta bước vào nơi xem ra
là đất hoang. Như người Do Thái xưa trong sa mạc, ta trách móc:
"Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? Nhớ thuở nào ta ăn cá bên
Ai-cập mà không phải trả tiền, rồi nào dưa gang, dưa bở, nào
hẹ, nào hành, nào tỏi. Còn bây giờ đời ta tàn rồi; mọi thứ
đó hết sạch, chỉ còn thấy man-na thôi." (Ds 11: 4–6).
Ta không thèm manna, bánh của các thiên thần, vì vị giác ta đã ra
hư đốn; ta không dành tai cho im lặng vì ta sợ mất ồn ào là điều
đang mang lại cho ta sự an toàn giả tạo có được điều gì đó
không phải là cái tôi trống rỗng của mình.
Ở đây, ta nhớ tới lời của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger viết
năm 1993. Ngài bảo: “Con người hiện đại gần như sợ hãi
phải ở một mình; anh ta sợ sự im lặng, sợ cái trống vắng
của im lặng. Dường như các phương tiện truyền thông muốn ngăn
cản không cho con người ở một mình với chính anh ta. Nhưng cùng
một lúc, trong anh ta lại có một sự tởm gớm đối với cuộc
oanh kích của truyền thông; trong anh ta có một ước muốn nào đó,
có thể chỉ là tiềm ẩn, được thoát khỏi cảnh nô lệ miên
viễn gây ra do tất cả những điều thế gian có thể cung hiến”
(Il cinema e la fede. La Messa é finita? Cf. Osservatore Romano, 11 tháng
11 năm 1993).
Từ thẳm sâu, ta biết: tốt hơn nên sống với vấn nạn chân
thực còn hơn trao thân cho một giải pháp dễ dãi, kiểu cà phê
uống liền. Đức Gioan Phaolô II từng nói: “Đây là điều con người
thời nay cần có; anh ta thường thiếu khả năng im lặng vì sợ
gặp gỡ chính mình, sợ cảm thấy trống rỗng khiến mình phải
tra vấn ý nghĩa của chính mình; con người đành lấy ồn ào làm
mình điếc tai. Mọi người chúng ta, tin hay không tin, đều cần
một sự im lặng để Đấng Khác lên tiếng lúc nào và cách nào
Người muốn, để ta hiểu được lời của Người” (Orientale
Lumen, n. 16).
Ta cũng cần lưu ý tới tính khí và nền văn hóa Tây Phương, một
nền văn hóa có xu hướng thiên về phân tích. Họ thường hay đi
tìm các kết luận thuận lý cho sự an toàn của mình. Họ muốn
được giải thích, nhưng không thấy rằng mọi giải thích, nếu
muốn là giải thích chân thực, thì sau cùng phải bám rễ vào điều
tự nó hiển nhiên (self-evident), vào điều không thể giải thích
được, nhưng, chính vì thế nó đứng ở đầu nguồn mọi giải
thích. Trong cuộc sống của người trọng tinh thần, thái độ này
có thể trở thành một quyến rũ thật sự. Thường thì ta chỉ
giống những người đốt nến tìm đường giữa lúc mặt trời
chiếu sáng chói chang hơn là để cái nhìn của mình hành động
trọn vẹn dưới sự thúc đẩy của ơn thánh.
Lời khuyên của chân phúc Rossmini về sự im lặng bề ngoài trong
cuộc sống hằng ngày của ta chứng tỏ ngài rất nghiêm túc đối
với vấn đề ấy; lời khuyên này cũng giúp ta hiểu được sự
thực nằm dưới cách diễn đạt súc tích, khô khan một nội dung
mà thoạt mới đọc người ta có cảm tưởng là dễ dãi và đạo
hạnh một cách cường điệu. Thí dụ, trong “Các Phương Châm Đạt
Sự Hoàn Thiện Kitô Giáo”, ta hay gặp những câu như: còn về
phần mình, người Kitô hữu tự chọn cho mình một ‘cuộc sống
ẩn dật, một cuộc sống càng cô tịch, càng thinh lặng và dấu
ẩn bao nhiêu càng hay”; ‘lòng yêu thích sự ẩn dật khiến họ
không muốn liên hệ với những người họ không có trói buộc nào
cả’; ‘Người Kitô hữu… muốn trở nên hoàn thiện phải
chọn một cuộc sống ẩn dật, thinh lặng và bận bịu. Việc
chọn sống ẩn dật ấy bao hàm một quyết tâm không ra ngoài một
cách không cần thiết… Sự thinh lặng họ chọn sẽ dẫn họ
tới việc tránh những lời nói vu vơ càng nhiều càng hay, nghĩa là,
những lời nói không dính dáng gì tới việc lớn mạnh của họ cũng
như của người khác hay không cần thiết đối với nhiệm vụ và
nhu cầu của cuộc sống họ’. Đọc qua loa các câu đại loại như
thế, ta dễ có cảm tưởng đó chẳng qua chỉ là những điển hình
cực đoan nhất của lối văn nhà đạo hay tu đức. Nhưng nếu
hiểu chúng như những bước thực tiễn lúc ban đầu để ta được
‘hoàn toàn đưa vào trong Thiên Chúa’ hay như chân phúc Rossmini thường
dùng câu Xuất Hành 19:4 để ám chỉ: “Các ngươi thấy đó… Ta
đã mang các ngươi trên cánh đại bàng và đưa các ngươi đến
với Ta”, thì đó là lời mời gọi ta ra khỏi thế giới mộng mơ
do chính ta tạo ra để bước vào thế giới thực tại vốn tùy
thuộc hành động sáng tạo và cứu chuộc đầy yêu thương của
Thiên Chúa.
Khát vọng thinh lặng có tính Kitô Giáo này hoàn toàn tiếp nối
truyền thống sống đạo của những con người thánh thiện suốt
trong lịch sử Giáo Hội mà điển hình nhất là lối sống của các
tu sĩ dòng thánh Bruno (Chartreux). Tất nhiên lối sống này không
hẳn thích hợp cho mọi người, nhưng những nét chính yếu họ
nhấn mạnh về sự thinh lặng thì ai ai cũng áp dụng được, và
những điều đó tóm lược được hết những gì chúng ta vừa nói
về sự thinh lặng này.
“Im lặng là lắng nghe: không phải nỗi chờ mong ray rứt được
nghe những lời lọt vào lỗ tai ta hay tràn ngập trái tim ta, mà là
bình thản tiếp nhận Đấng đang hiện diện và đang hành động
một cách thầm lặng trong cõi thâm cung của ta. Thực thế, im
lặng phối hợp việc không nói lời nào trên môi miệng và trong
trái tim với việc đối thoại sống động cùng Thiên Chúa. Ta không
nên vướng vào những cuộc đối thoại dài dòng về chủ đề này
nhưng hãy đọc chính lời của Thánh Bruno: ‘hoa trái của sự im
lặng chỉ người cảm nghiệm được nó mới thấy…’. Im lặng
là thế này: để Chúa nói trong ta lời tương đương với chính Người.
Lời ấy tới tai ta mà chính ta không biết bằng cách nào, mà ta không
có khả năng diễn tả các đường nét chính xác của nó; chỉ
biết: chính Lời Thiên Chúa đến với ta và vang dội trong trái tim
ta” (The Wound of Love, tr. 63–4, London 1994).
Sự im lặng của Đức Mẹ
Nói về sự im lặng mà không nói tới gương mẫu im lặng của Đức
Mẹ khi tiếp nhận Ngôi Lời là một điều thiếu sót. Những lời
đẹp đẽ và thích đáng nhất về sự im lặng này có thể trích
dẫn từ Đức Gioan Phaolô II, từ chân phúc Rossmini và từ thi hào
Paul Claudel.
Đức Gioan Phaolô II từng nói như sau về sự im lặng của Đức
Mẹ: “Gương sáng của Đức Mẹ làm Giáo Hội hiểu rõ hơn giá
trị của sự im lặng. Sự im lặng của Ngài không những chỉ là
việc điều độ về lời nói mà trên hết còn là khả năng đầy
khôn ngoan nhớ lại và nhắc lại trong một chớp nhoáng của niềm
tin trọn mầu nhiệm Ngôi Lời thành người và mọi biến cố
thuộc cuộc sống dương gian của Người. Sự im lặng để tiếp
nhận Ngôi Lời này, khả năng biết suy niệm về mầu nhiệm Chúa
Kitô này đã được Đức Mẹ lưu truyền cho những người biết
tin. Trong một thế giới ồn ào và đủ mọi thứ thông điệp này,
chứng tá của Ngài giúp ta biết đánh giá được sự im lặng
hết sức phong phú về tâm linh và khích lệ ta phát triển tinh
thần chiêm niệm. Đức Mẹ làm chứng cho giá trị của một cuộc
sống khiêm hạ và ẩn dật. Ai trong chúng ta cũng thường yêu cầu
và đôi lúc đòi hỏi quyền được đánh giá trọn vẹn con người
và các phẩm tính bản thân của mình. Ai cũng nhậy cảm đối
với lòng qúy mến và trọng vọng. Chính Phúc Âm cũng nhiều lần
cho thấy các Tông Đồ đã thèm muốn chỗ đầu hết trong vương
quốc Chúa Kitô như thế nào và tranh luận với nhau xem ai là người
vĩ đại nhất. Khiến Chúa Giêsu phải dạy họ nhiều bài học
về sự cần thiết phải khiêm nhường và có tinh thần phục vụ
(xem Mt 18:1-5; 20: 20-28; Mc 9:33-37; 10:34-45; Lc 9:46-48; 22:24-27). Đức
Mẹ, trái lại, không bao giờ thèm muốn vinh dự hay địa vị ưu
thế. Ngài luôn tìm cách chu toàn Thánh Ý Chúa bằng cách sống
một cuộc sống phù hợp với kế hoạch cứu rỗi của Chúa Cha.
Đức Mẹ tỏ lộ cho tất cả những ai thường cảm thấy sự
nặng nề của một cuộc sống bề ngoài xem ra vô nghĩa thấy rõ:
cuộc sống ấy thực ra hết sức qúy giá nếu họ chịu sống nó
vì tình yêu Chúa và tình yêu anh em” (Osservatore Romano, 23 tháng
11 năm 1995).
Chân phúc Rossmini thì nói những lời sau đây về Đức Nữ Trinh,
những lời rõ ràng đi trước các lời lẽ trên đây của Đức
Gioan Phaolô II: “Đàng khác, người Kitô hữu lúc nào cũng phải
suy niệm và mô phỏng đức khiêm nhường sâu sắc của Đức Nữ
Đồng Trinh Maria, Đấng mà Thánh Kinh mô tả là luôn ở trong
trạng thái thanh thản, bình an và yên tĩnh. Cuộc sống được Đức
Mẹ tự ý chọn là cuộc sống của khiêm nhường, ẩn dật và
thinh lặng. Chỉ có tiếng nói của Thiên Chúa hay sự thúc giục
của Đức Ái đối với Thánh Nữ Isave mới lôi kéo Ngài ra ngoài
cuộc sống ấy mà thôi. Theo sự phán đoán nhân bản, ai lại
chẳng nghĩ: sao Thánh Kinh nói ít đến thế về tạo vật hoàn
hảo nhất trong các tạo vật? Không nhắc chi đến bất cứ công
trình nào của Ngài; ấy thế nhưng đời Ngài, một đời mà thế
giới mù lòa coi như chuỗi dài những bất động liên tục, đã
được Thiên Chúa công bố là siêu việt nhất, đạo hạnh nhất,
cao thượng nhất trong mọi cuộc đời, và do đó, Nữ Trinh khiêm
nhường và ẩn dật này đã được Đấng Toàn Năng nâng lên địa
vị cao trọng nhất, lên tòa vinh quang cao cả hơn bất cứ con người
và thiên thần nào”.
Còn thi hào Paul Claudel thì sao? Trong bài thơ “Je n’ai rien à
offrir” (Con chẳng có chi để tiến dâng) ông đã viết như sau:
Con chẳng có chi để tiến dâng, chẳng có chi để khẩn cầu!
Lạy Mẹ chí ái, con chỉ đến ngắm Mẹ.
Chẳng có chi – song được ở với Mẹ, Lạy Mẹ Maria,
chỉ một lúc thôi
khi mọi sự lặng thinh
tại chốn này
nơi Mẹ ngự.
Vũ Văn An
VietCatholic News
|