Ngày 10 tháng 10
Angela Truszkowska
(1825-1899)
Vừa nghe thấy tiếng đập cửa, Mẹ Angela vội vã chạy ra
mở cửa; đứng ngoài cửa là một anh lính trẻ đang kinh hoàng
đến cực độ. Vừa thấy Mẹ, anh liền nài xin: "Xin Sơ
cho con chỗ để ẩn núp". Không đủ giờ để đem anh lính
này đến nơi chốn an toàn trong hốc tường đặc biệt, vì Mẹ
đã nghe thấy tiếng giầy của công an đang chạy ngoài đường.
Mẹ nói với anh, "Theo tôi ngay!" Dừng lại trước những
thùng rác lớn, Mẹ bảo anh nhảy vào thùng lớn nhất. Mẹ liền
mau tay đổ vào thùng rác đó hết thùng này đến thùng khác
những tấm băng thấm đầy máu đã được dùng để băng bó
vết thương. Không bao lâu, anh lính đã xỉu đi dưới đống
băng sa thải của một ngày làm việc trong bệnh viện của
các nữ tu Dòng Felician.
Sau khi nghe tiếng gõ cửa thứ hai, Mẹ Angela chậm rãi bước
ra mở cửa. Mấy công an lực lưỡng hùng hổ bước vô nhà
và bắt đầu cẩn thận khám xét. Một lúc sau, một tên công
an tiến lại bên thùng rác và mở tung nắp thùng rác ra, và
thọc tay vào thùng, nhưng khi hắn thấy những gì nằm trong
thùng rác này, hắn vội rút ngay tay ra. Thất vọng vì không
tìm thấy tội phạm, họ bỏ đi. Nhờ tài trí lanh lẹ của Mẹ
Angela, người lính trẻ kia đã may mắn thoát chết.
Mẹ Maria Angela Truszkowska là Vị sáng lập Dòng Nữ Felician
(C.S.S.F) ở Balan, một chi nhánh của đại gia đình Phanxicô. Mẹ đã sống,
làm việc, và chết trong một thời điểm buồn thảm nhất của
lịch sử Balan. Từ năm 1795 đến 1918, xét về mặt chính trị,
Balan không còn hiện hữu, và đã bị xoá tên khỏi bản đồ
Âu Châu. Trong 123 năm, người dân Balan đã phải hứng chịu
biết bao sầu khổ không tả xiết, trong khi quốc gia họ bị
ba nước Nga, Phổ, và Áo cai trị, mỗi nước một vùng. Năm
1830, dân Balan nổi lên chống lại nhà cầm quyền Nga. Cuộc nổi
loạn này đã khiến cho Nga trả đũa một cách dã man. Ruộng
nương bị tịch thu, những người thuộc hàng quý phái bị lưu
đầy, người Công Giáo Rutheniann bị bắt bớ; không những thế,
họ còn định Nga-hoá cả dân tộc Balan. Trong lần nổi loạn
thứ hai xảy ra năm 1863, người Nga trả đũa một cách tàn
ác hơn, trong đó có việc triệt hạ các dòng tu. Nhưng giữa
tất cả những bắt bớ và khó khăn, Dòng Felician vẫn đứng
vững và lớn mạnh dưới sự hướng dẫn của Mẹ Angela.
Zophia Kamilla Truszkowska sinh ngày 16 tháng 5 năm 1825 tại
Kalisz, Balan. Zophia là con đầu lòng trong 4 người con của ông
Giuse và bà Giosepha Truszkowska. Gia đình Truszkowska là một
thành phần thuộc hàng quý tộc Balan và là một gia đình
Công Giáo đạo hạnh. Ông Giuse là một luật sư biện hộ
trong toà án ở Kalisz. Vì sinh thiếu tháng, nên bé Zophia rất
yếu ớt, và vì bác sĩ không hy vọng bé sẽ sống được, nên
bé liền được rửa tội tại nhà. Dù vậy cha mẹ bé nhất
quyết cố gắng giữ bé sống, nên mẹ bé đã làm chiếc máy
hô hấp để kéo dài sức sống của em, và đồng thời hai
ông bà đã thành khẩn van xin Đức Mẹ Czestochowa cho con được
sống.
Tấm lòng từ mẫu của Mẹ Maria không thể từ chối niềm
tin mạnh mẽ đó, và bé Zophia đã được sống. Với tấm lòng
biết ơn, bà Giosepha đã truyền lại cho Zophia lòng yêu mến
đặc biệt đối với Đức Mẹ, và lòng mến này theo thời
gian cứ lớn mạnh hơn lên mãi. Không bao lâu sau, Zophia đã trở thành một đứa trẻ thông
minh, luôn đặt ra nhiều câu hỏi về mọi vấn đề. Cha mẹ
em đã mướn một cô giáo về để dạy em. Cô giáo này có một
ảnh hưởng mạnh mẽ trên em, cả về mặt đạo đức cũng
như trong việc học vấn. Mỗi lần đi dạo, thầy trò thường
kết thúc bằng việc viếng Chúa Giêsu Thánh Thể.
Ngay từ thời niên thiếu, Zophia dường như đã nhận thức
được và cảm thương với mọi nỗi khốn cùng của tha
nhân. Trong khi đi dạo với cô giáo, Zophia thường lấy những
đồng xu em đã được người khác cho em, và vui vẻ cho những
người ăn xin và những người không may mắn em gặp trên đường.
Khi Zophia lên 12 tuổi, em theo gia đình chuyển về Warsaw, và
ở đó em được vào học tại một trường tư. Tại đây,
Zophia tỏ ra trổi vượt trong vấn đề tư cách và học vấn.
Thêm vào đó, một thầy giáo còn công khai gọi em là "bé
cưng," tuy rằng điều này làm cho em rất xấu hổ.
Lúc 16 tuổi, Zophia mắc phải chứng bệnh phổi, nhưng cũng
may là được chữa trị ngay trong thời gian đầu. Zophia được
cha mẹ cho sang Thụy Sĩ cùng với cô giáo với hy vọng tại
đây sức khoẻ của Zophia sẽ khá hơn. Tại đây, vẻ đẹp của
núi đồi đã gây nên một ấn tượng mãnh liệt trên tâm hồn
cô và đồng thời lòng cô thầm ca tụng kỳ công vĩ đại của
Thiên Chúa, và cũng chính nơi đây, Zophia như cảm thấy mình
thực sự muốn trở thành một nữ tu. Khi trở lại Warsaw,
Zophia tỏ cho cha mẹ biết ước vọng của mình, nhưng cả hai
ông bà đều kịch liệt phản đối ý muốn vào Dòng của
cô, nên cô đành phải sống âm thầm trong bầu khí gia đình,
tiếp tục học hành và cầu nguyện.
Ngoài việc cầu nguyện và học hành, Zophia còn để giờ
phụ với cha mẹ trong việc chăm sóc các em, và giúp các em
trong vấn đề học vấn. Zophia đâu ngờ những việc đó
đang sửa soạn cho lý tưởng mai này của cô trong vai trò người
thầy và người mẹ của vô số các trẻ mồ côi.
Trong thời gian này, Zophia cũng làm một quyết định là sẽ
là người đầu tiên đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ. Cùng với
Valerie, em cô, trong mấy tuần liền, từ sáng sớm đã lén ra
khỏi nhà. Nhiều hôm hai chị em phải đứng chờ lâu giờ ở
ngoài trời băng tuyết lạnh giá vì cửa nhà thờ vẫn còn
khoá. Nhưng lòng sốt sắng của hai chị em đã sớm bị ngăn
chặn vì bị người coi nhà bắt gặp, và người này được
cha cô ra lệnh không bao giờ được cho hai cô ra khỏi nhà trước
5 giờ sáng.
Cái chết của em Valerie, lúc mới được 16 xuân xanh, đã
gây một ấn tượng mạnh mẽ trên Zophia. Đứng suy ngắm trước
quan tài của Valerie, Zophia nghĩ tới cuộc đời thật quá ngắn
ngủi, và sự vô cùng của cuộc sống mai sau. Vì thế, Zophia
đã thưa chuyện với Cha giải tội, và quyết định xin vào
Dòng chiêm niệm các nữ tu Dòng Thăm Viếng, nhưng khi cô xin
phép cha mẹ, thì bà mẹ chỉ biết khóc thương con, còn ông bố
thì kịch liệt phản đối. Cũng trong thời gian này, cha cô bị
bệnh nặng, thế là Zophia trở thành một y tá tận tình chăm
sóc cho cha. Và khi cảm thấy ước vọng đi tu làm cho cha phải
đau khổ nhiều, cô đã hứa với cha là sẽ không tỏ ý định
đi tu cho đến khi ông qua đời. Sau đó, cô cùng cha sang Đức
tìm cách chữa trị tại suối nước khoáng tuyền ở
Salzbrunn, và các thành phố lớn ở Đức. Tại Vương Cung Thánh
Đường Cologne, Zophia nhận thấy Thiên Chúa không gọi cô vào
Dòng Thăm Viếng, tuy nhiên cô vẫn chưa biết Thánh Ý Chúa sẽ
định đoạt cho mình thế nào; nhưng từ đó, cô nói rằng
tâm hồn cô tràn đầy bình an và hoàn toàn phó thác.
Trở lại Warsaw, ông Joseph bắt đầu có ý định cho Zophia
tiếp xúc với xã hội, với hy vọng cô sẽ tìm được một
người bạn đời tốt. Cô vâng theo ý muốn của cha mẹ, tham
dự các buổi tiệc tùng và dạ hội. Nhưng vì tính tự nhiên
rất nhút nhát và thích đời sống âm thầm, nên những lúc
này thật là một thử thách lớn cho cô. Trong nhiều buổi dạ
vũ, Zophia thường tìm một người em họ và cũng là người bạn
thân, Clothilde Ciechanowski, và cả hai cũng tìm chỗ thanh vắng
để bàn những chuyện hợp sở thích của họ. Clothilde cũng
cảm thấy muốn vào dòng kín, nhưng cũng bị gia đình phản
đối.
Sau một mùa đông bận rộn trong các cuộc dạ hội liên
hoan, mùa hè năm đó, Zophia và Clothilde đến nghỉ hè tại
nhà nghỉ hè của gia đình ông nội của Clothilde ở Grojec.
Ở đây, hai cô dùng thì giờ để dạy giáo lý cho các trẻ
em trong làng, và may quần áo cho những người nghèo trong xứ
đạo. Tối đến, khi mọi người trong nhà đã đi ngủ, Zophia
mới tìm được giờ để cầu nguyện. Một buổi sáng nọ,
cô giáo cũ của cô, lúc này vẫn theo ở với gia đình cô,
tình cờ thấy Zophia đang nằm ngủ trên sàn nhà vì hãm mình.
Theo gương thánh Phanxicô Assisi, Zophia quyết định không nằm
trên giường. Vì nhận ra lòng đạo đức của Zophia, và vì
biết rằng cha mẹ cô sẽ cực lực phản đối nếu việc hãm
mình này của cô bị họ biết được, nên cô giáo của
Zophia giữ kín chuyện đó. Ngoài việc nằm ngủ trên sàn,
Zophia còn làm nhiều việc hãm mình khác, nhưng tất cả đều
được làm cách kín đáo trong âm thầm.
Một tối nọ, trong khi Zophia đang cầu nguyện trước ảnh
Đức Mẹ Czestochowa trong phòng riêng, không biết vì sao áo cô
và khung ảnh Đức Mẹ đã bắt hoả từ cây nến và bị
cháy. Khi cô giáo của Zophia ngửi thấy mùi cháy, bà liền đi
tìm chỗ cháy, và khi thấy áo Zophia và khung ảnh đang cháy,
bà liền gọi người đến chữa lửa. Không hiểu lúc đó
Zophia đang ngủ hay đang chìm đắm trong cầu nguyện, nên đã
không biết là mình đang bị cháy. Khi dập tắt được ngọn
lửa, mọi người thật kinh ngạc khi thấy cả Zophia và tấm
ảnh Đức Mẹ đều không bị hề hấn gì, trong khi áo và
khung ảnh lai bị thiêu rụi. Mọi người đều cho đây là hiện
tượng lạ, và từ đó cả gia đình có lòng sùng kính rất
đặc biệt đối với bức ảnh này.
Một thời gian sau, vì Zophia không còn nói đến việc đi tu
nữa, nên ông Joseph cho phép Zophia được chăm sóc những người
bần cùng trong khu phố nghèo ở Warsaw, và quảng đại giúp đỡ
hai đứa trẻ mồ côi do Zophia chăm sóc. Sau này, con số đó
lên đến sáu, và Zophia cùng với Clothilde trở thành hai phần
tử đầu tiên của Tu hội Thánh Vinhsơn Phaolô mới thành lập.
Theo sự đề nghị của Cha giải tội, Zophia cũng xin nhập Dòng
Ba Phanxicô, và nhận tên mới là Angela. Lúc này Angela (Zophia)
đã 29 tuổi. Với sự trợ giúp về tài chính của Cha và với
số tiền xin được, Angela cùng với Clothilde lập một viện
mồ côi, và nhà trọ cho những phụ nữ không nhà hay bị bỏ
rơi. Ngày 21 tháng 11 năm 1885, Angela cùng với Clothilde công
khai tận hiến cho Đức Mẹ, theo như Thánh ý của Chúa Giêsu,
Con Mẹ.
Gương phục vụ của hai người đã lôi kéo nhiều thiếu nữ
khác từ những gia đình giầu có ở Warsaw gia nhập. Vì tất
cả đều gia nhập Dòng Ba Phanxicô và sống đời sống cộng
đồng, nên vị cố vấn quyết định cho họ mặc áo Dòng; thế
là năm 1857, mười Chị được mặc áo Dòng Phanxicô. Trong thời
gian này, vì các nữ tu trẻ này thường đưa các trẻ mồ
côi do họ coi sóc đến một thánh đường của Dòng Capuchin
được dâng kính Thánh Felix, nên dân thành từ đó bắt đầu
gọi họ là các Sơ Dòng Felician, và tên ấy đã đi liền với
tu hội mới cho đến ngày nay. Năm 1860, tu hội được vào sổ
bộ ở Vatican, và Đức Thánh Cha Piô IX đã chúc lành cho tu hội
mới này. Sơ Angela được chỉ định làm Bề trên tiên khởi
của tu hội.
Tại tu viện, Mẹ Angela vẫn giữ vai trò là mẹ và là thầy
của các trẻ mồ côi. Mẹ cũng là người bạn, y tá, và người
an ủi đối với những phụ nữ cao niên. Thêm vào đó, Mẹ
thường tìm giờ đi thăm những người cùng khổ trong khu phố
nghèo, đem đến cho họ sự trợ giúp an ủi về tinh thần cũng
như vật chất. Không bao lâu, vì quá nhiều người đến xin nhập tu hội,
Mẹ Angela càng ngày càng phải dùng thêm giờ để huấn luyện
các phần tử của Dòng. Chỉ trong 4 năm, các Sơ đã có thể
mở được 27 trường học tại các làng mạc trong phần đất
người Nga chiếm đóng. Ban ngày, các em nhỏ đến học tại
trường, ban tối người lớn tụ tập để học giáo lý.
Các nữ tu sống với Mẹ Angela từ thuở ban đầu đều xác
nhận rằng Mẹ đòi hỏi rất nhiều nơi họ, nhưng Mẹ vẫn
cho mỗi người những sự trợ giúp tinh thần và những chỉ
bảo để giúp họ đặt lý tưởng đời họ trên một nền tảng
vững chắc. Năm 1860, một chi nhánh chiêm niệm của Dòng
Felician được thành lập. Tu viện này có 12 nữ tu sống đời
chiêm niệm để đền tạ cũng như cầu nguyện cho công việc
của cộng đoàn Dòng, trong khi các nữ tu khác tiếp tục công
việc tông đồ. Mẹ Angela là một trong 12 nữ tu chiêm niệm
đầu tiên ấy, nhưng sau 3 năm, vì vai trò của Mẹ phải coi
sóc cả hai nhánh buộc Mẹ phải trở lại làm việc với các
nữ tu hoạt động.
Đến năm 1863, một cuộc nổi loạn bùng lên chống lại người
Nga. Trong dịp này, các nữ tu Felician lo săn sóc các binh lính
Balan bị thương, và sau khi cuộc nổi loạn bất thành, họ
giúp che dấu những người tị nạn chính trị. Một bức tường
bí mật của bệnh viện đã được biến thành nơi tạm trú
cho những người bị lùng bắt đó. Trong một bức thơ gởi cho các Sơ trong thời gian này, Mẹ
Angela viết những lời đầy an ủi, khuyến khích, và đề nghị
các Sơ hãy "giúp đỡ tất cả mọi người không trừ một
ai, dù bạn hay thù hãy coi họ như nhau... Mọi người đều là
anh chị em của chúng ta".
Không lâu sau, những người Nga nghĩ rằng các Sơ Felician đã
tham gia vào cuộc nổi loạn, nên Nga hoàng ra lệnh giải tán
Dòng cùng với nhiều Dòng tu khác. Công an võ trang đã đột
nhập tu viện, ra lệnh cho các Sơ phải mặc thường phục, và
trong ba ngày phải rời khỏi tu viện. Còn các Sơ chiêm niệm
thì được phép đến tu viện Thánh Bernađinô ở Lowics để tạm
trú, trong số đó có Mẹ Angela. Trước khi rời Warsaw, Mẹ đã
lo cho các Sơ tìm được nơi tạm trú trong số các họ hàng
thân quyến của họ.
Trong một thời gian ngắn, không ai được phép giúp tiền của
cho các Sơ tại tu viện Thánh Bernađinô. Công an được lệnh
canh gác cửa, không cho ai đem đồ ăn và những vật dụng cần
thiết khác đến cho các Sơ. Một tối nọ, khi các Sơ vừa xuống
đến phòng ăn để dùng bữa tối, món duy nhất họ thấy
trên bàn là một bình nước. Ngồi vào ghế, Mẹ Angela và
các Sơ cùng nhìn nhau và cười. Sau đó, Mẹ Angela bắt lên
kinh Magnificat (Ngợi Khen) và kinh Te Deum (Tạ Ơn), mọi người
cùng chung lời tạ ơn Thiên Chúa trước khi dùng bữa tối bằng
nước lã.
Về phần các Sơ bị phân tán các nơi, họ chỉ còn cách
là làm việc trong âm thầm. Chính điều này làm cho Mẹ Angela
phải đau khổ nhiều. Sau cùng, vào năm 1865, Vua Franz Josef cho
phép các Sơ được sống trong vùng người Áo của nước
Balan. Mẹ sung sướng kêu gọi tất cả các Sơ tụ tập tại
Krakow, và Mẹ đến gặp họ vào tháng 5 năm 1886.
Mặc dầu Mẹ Angela vẫn tiếp tục lãnh nhận trách nhiệm
điều khiển cộng đoàn, sức khoẻ Mẹ bắt đầu suy giảm từ
từ và sau này tai Mẹ gần như điếc. Vì vậy đến năm 1869,
Mẹ đã từ chức Bề trên, và nhận việc chăm sóc khu vườn
của tu viện.
Dù đang mang bệnh, Mẹ vẫn tiếp tục làm việc. Vào năm
1873, Mẹ Angela mở rộng tầm hoạt động của Dòng trong việc
giúp đỡ các sinh viên đang theo học tại các đại học ở
Krakow. Một phòng ăn được thiết lập để cung cấp thực phẩm
cho các sinh viên nghèo; thêm vào đó còn giúp họ có những học
cụ cần thiết, và y phục tối thiểu để họ có thể tiếp
tục theo học. Để công việc này được hữu hiệu hơn, Mẹ
đã cầu xin sự trợ giúp của các thần thánh trên trời, nhất
là Thánh Antôn. Mẹ có lòng sùng kính đặc biệt với Thánh
Antôn, nhưng thay vì chỉ khoanh tay âm thầm cầu xin với ngài,
Mẹ đã dành nhiều giờ chuyện vãn với Thánh nhân trước một
bức ảnh của Ngài trong tu viện. Có người tình cờ nghe được
những câu Mẹ thân thưa với Thánh Antôn kể rằng trong lúc
đó, giống như Mẹ đang nói chuyện với một người nào đó
trong phòng. Một bữa nọ, Mẹ đi đi lại lại trước bức
ảnh, và trách khéo Thánh Antôn vì chậm trễ trong việc giúp
đỡ một sinh viên trẻ. Người sinh viên này cần một bộ quần
áo mới để mặc trong ngày thi. Không có bộ quần áo này
thì không được thi. Trong khi Mẹ đang đi lại, thì có tiếng
chuông gọi cửa. Trước cửa là một người đàn ông với bộ
quần áo mới trên tay: "Thưa Sơ, mấy lão thợ may ngớ ngẩn
thế nào, lại may cho tôi bộ quần áo này quá nhỏ. Sơ nghĩ
có người nào có thể dùng được không?"
Vào năm 1874, Hoa Kỳ xin các Sơ sang phục vụ những người
Balan di trú đang sống tại quốc gia này. Thế là vào ngày 24
tháng 10, Mẹ Angela sung sướng chúc lành cho năm nữ tu đầu
tiên dấn thân vào cánh đồng truyền giáo mới của Dòng.
Đến năm 1899, Mẹ Angela mắc phải chứng bệnh ung thư dạ
dày, vì thế trong mấy tuần cuối đời, Mẹ không thể ăn gì
được. Đức nhẫn nại anh hùng không than phiền của Mẹ khiến
cho các bác sĩ phải thán phục, đến nỗi một bác sĩ đã
nói: "Chỉ có một thánh nhân mới biết chịu đau khổ
như vậy". Mẹ âm thầm trở về nhà Cha 12:45 sáng ngày 10 tháng 10 năm
1899, và được mai táng trong nhà nguyện bên cạnh Tu Viện
Nhà Mẹ tại Krakow.
Sau khi Mẹ qua đời, nhiều người đến viếng ngôi mộ của
Mẹ và cầu xin sự cầu bầu của Mẹ. Sau đó không lâu, vì
rất nhiều ơn lạ xảy ra nhờ lời chuyển cầu của Mẹ
Angela, nên năm 1949, cuộc vận động xin phong Chân phước cho
Mẹ được bắt đầu. Đức Hồng Y Karol Wojtyla, Tổng Giám Mục
Krakow, hiện nay là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đã chính thức
mở cuộc điều tra năm 1967. Cũng chính Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã nâng Mẹ Angela Truszkowska lên bậc Chân phước ngày
08 tháng 4 năm 1993.
(Trích "Chứng Nhân Chúa Kitô" Rev John, CMC biên
soạn)
(Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saint và
Santi-Beati-Testimoni)
|