Ngày 06 tháng 10
Bl. Isidore of St Joseph
(1881-1916)
Tất cả các tu sĩ thuộc các dòng tu trong Giáo hội luôn
theo đuổi hai mục đích rõ rệt: thứ nhất thánh hoá bản
thân, và thứ hai cứu các linh hồn anh chị em đồng loại bằng
mọi phương pháp theo sáng kiến riêng của mỗi hội dòng. Đối
với các tu sĩ Dòng Thương Khó, ngoài hai mục đích đó còn
thêm một mục đích thứ ba, đó là truyền bá lòng sùng kính
sự Thương Khó Chúa Kitô.
Để đạt được những mục đích cao cả này, các tu sĩ
không cần phải thực hiện những việc lạ lùng hay phải
hãm mình nhiệm nhặt. Đường lối dẫn đến sự thánh thiện
của họ là vâng theo Thánh Ý Chúa bằng cách tuân theo các luật
lệ và vâng lời Bề trên. Do đó, đời sống những tu sĩ tận
hiến này là một cuộc đời khiêm nhu ẩn dật.
Trong suốt cuộc đời, Thầy Isiđôrô đã sống theo luật sống
đó trong sự vâng phục các Bề trên một cách vui vẻ, không
phàn nàn. Lúc qua đời vào năm 1916, Thầy không để lại những
bút tích tuyệt tác, và người ta cũng không thấy Thầy làm một
việc gì lạ lùng. Dù vậy, chỉ 13 năm sau khi Thầy qua đời,
hương thơm nhân đức của Thầy đã toả lan, đến nỗi người
ta đã nghĩ đến việc xin phong thánh cho Thầy. Đến năm 1952,
hơn ba mươi ngàn người đã đến tham dự nghi thức cải mộ
và tỏ lòng tôn kính Thầy.
Điều gì nơi con người tu sĩ khiêm hạ này đã có sức
thu hút quần chúng như thế? Sự thánh thiện của Thầy Isiđôrô
được đặt trên nguyên tắc là hết mọi người, tu sĩ cũng
như giáo dân, được mời gọi để thi hành Thánh Ý Thiên
Chúa một cách khiêm nhượng và hăng hái. Thầy Isiđôrô tìm
thấy sức mạnh để nhận biết và thi hành Thánh Ý Thiên
Chúa trong sự cầu nguyện.
Isiđôrô đệ Loor sinh ngày 13 tháng 4 năm 1881 tại Vrasene, Flanders
là con cả trong một gia đình nông dân tại
Bỉ. Cha mẹ Thầy lập gia đình muộn, và với ba mặt con,
ông bà đã kiến tạo được một gia đình thật gắn bó và
yêu thương. Công việc đồng áng thật cực nhọc đến nỗi
ông bà không được tham dự thánh lễ hằng ngày. Isiđôrô
thay mặt cho cả gia đình trung thành tham dự thánh lễ hằng
ngày và cùng với cả gia đình tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật.
Isiđôrô đã lớn lên trong một gia đình biết kính mến
Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Cuối mỗi ngày làm việc,
cả gia đình cùng tụ tập quỳ gối lần hạt Mân Côi. Bỏ
đọc kinh hằng ngày là điều không thể được trong gia đình
của Isiđôrô.
Isiđôrô đã phụ giúp cha làm công việc đồng áng với khả
năng của cậu. Ngoài ra, cậu còn làm những công việc vặt
khác giúp đỡ mẹ hoặc chăm sóc cho các em. Bởi vì những
nông phu trẻ miền quê ở Bỉ vào cuối thế kỷ 19 không cần
thụ huấn nhiều ở trường, nên cậu cũng chỉ được đến
trường có 6 năm. Năm lên 12 tuổi, cậu phải nghỉ học để
giúp việc đồng áng. Isiđôrô càng lớn, lòng ham ước tận hiến mình cho Thánh
Ý Thiên Chúa cũng lớn theo. Cầu nguyện và làm việc là luật
sống của cậu lúc ấy.
Vào các Chúa nhật, Isiđôrô đi dự lễ sớm, và sau khi về
nhà điểm tâm cách vội vã, cậu liền trở lại nhà xứ để
dạy giáo lý cho các trẻ em trong xứ. Các buổi trưa Chúa nhật
cậu thường đi bộ hàng giờ đến những nhà thờ lân cận
để giúp dạy giáo lý. Hết những ai biết Isiđôrô lúc ấy
đều nói tốt về cậu và tỏ lòng ngưỡng mộ. Mặc dù
luôn tỏ ra là người vui tươi, Isiđôrô không thích những cuộc
nói chuyện bất nhã, thô tục và cậu không bao giờ nhượng
bộ trong vấn đề này. "Người tử tế không được nói
những điều đó", cậu nhắc cho họ. "Hãy nghĩ đến
Thiên Chúa, Đấng hằng nghe và thấy bạn mọi nơi mọi lúc".
Trong những khi ít công việc ở ngoài đồng, thay vì Isiđôrô
nghỉ ngơi hay làm những việc hợp với sở thích, cậu trước
hết lo những việc sửa sang nhà cửa, rồi sau đó tình nguyện
đi giúp những người láng giềng.
Mặc dù luôn ước mơ ơn gọi hoàn toàn tận hiến cho
Thiên Chúa, Isiđôrô chỉ biết tâm sự điều này với Chúa
chứ không dám tỏ cùng ai. Isiđôrô biết cha mẹ già cần
mình ở nhà. Đến năm 26 tuổi, cậu tham gia việc truyền giáo
do một Cha Dòng Chúa Cứu Thế đảm trách. Isiđôrô đã bày tỏ
với vị linh mục này ước mơ của mình. Vị linh mục đã
khôn ngoan khuyên chàng theo ơn gọi của mình bằng cách gia nhập
làm tu sĩ Dòng Thương Khó (C.P.). Lúc đầu, song thân của chàng cũng lưỡng lự khi nghĩ đến
sắp phải mất một người con. Nhưng với niềm ước vọng
muốn tuân theo Thánh Ý Thiên Chúa, các ngài đã bằng lòng cho
con đi thử nghiệm ơn gọi.
Cha ngài đã không thể cầm lòng được lúc phải chia tay với
người con yêu dấu. Trên đường ra nhà ga, bà thân mẫu, đôi
mắt đẫm lệ, đã nói với con: "Isiđôrô, nếu ở tu viện
không hợp cho con thì về nhà liền nhé". Isiđôrô liền
thưa với mẹ: "Mẹ à, đứa con này sẽ không bao giờ trở
về nữa đâu". Mặc dù đã dốc lòng không trở về nhà, tìm được tu viện
cả là một vấn đề khó khăn đối với Isiđôrô. Nước Bỉ
là một quốc gia với hai ngôn ngữ, trong khi Isiđôrô chỉ biết
nói tiếng Đức (flemish) mà đường đi đến tu viện lại thuộc
miền nói tiếng Pháp. Khi đến làng, chàng không thể tìm thấy
tu viện. Chàng cố gắng ra dấu và vẽ dấu hiệu của Dòng
Thương khó để tìm ra hướng đi. Sau cùng chàng mới gặp một
người biết tiếng Đức chỉ đường cho.
Trong những ngày đầu ở nhà dòng, chàng cảm thấy thật
lép vế trước sự hiện diện của các linh mục tu sĩ có học
thức. Nhưng không bao lâu, lòng tử tế của mọi người đã
san bằng mọi ngăn cách, và chàng đã có thể viết thư về
nhà khen ngợi sự bình dân gặp thấy trong nhà dòng. "Ở
đây tất cả mọi người đều như nhau, từ Cha Bề trên cho
đến người thấp hèn nhất: ăn chung, ngủ chung, cùng nghỉ
ngơi, cùng giải trí". Isiđôrô đã được đổi tên mới
là Isiđôrô Giuse.
Từ ngày đầu tiên ở tu viện, Thầy Isiđôrô đã dốc quyết
cố gắng hết sức để chu toàn lề luật cách hoàn hảo và
vâng phục tất cả mọi huấn lệnh của các Bề trên, không
thắc mắc, không than phiền. Cha Giám tập nhận thấy rõ Isiđôrô
có những đức tính rất đặc biệt và có một cuộc sống
thật nhiệm nhặt. Isiđôrô không bao giờ phàn nàn. Biết rằng luật cấm các Thầy không được hy sinh hãm
mình ngoại thường, Isiđôrô đã thực hiện những việc ăn
năn sám hối nhỏ mọn hầu như không ai biết đến. Trong nhiệm
vụ nấu ăn cho anh em Dòng, thay vì làm những món đơn giản,
dễ dàng hợp với thực đơn, Thầy luôn cố gắng để dọn
những món ăn hợp với sở thích của mỗi người. Thêm vào
đó, Thầy đợi cho tất cả mọi người ăn xong rồi mới dùng
những thức ăn còn lại. Một lần nọ, có Thầy để ý thấy
khi dùng bánh mì, Thầy Isiđôrô lướt "dao quẹt bơ"
trên miếng bánh mì, nhưng thật ra bơ không dính trên bánh mì
một tí nào. Thầy làm vậy để che mắt mọi người. Đối với
Thầy, những việc hãm mình nho nhỏ này như là những tặng vật
dâng lên Thiên Chúa.
Một ngày kia khi Thầy Isiđôrô đang cắt cỏ, khí trời đột
nhiên trở nên nóng bức khác thường. Một Thầy được sai
đi lấy nước lạnh đem ra cho Thầy uống. Isiđôrô tử tế
cám ơn Thầy bạn, nhưng về sau quan sát thấy Thầy lén bỏ lại
chai nước đầy vào nhà bếp. Mặc dù Thầy thích làm các
công việc ngoài trời là những việc ngay từ bé Thầy vẫn
yêu thích như chăm sóc vườn tược và làm việc đồng áng,
nhưng khi được chỉ định làm bếp hay ở nhà giặt, Thầy
không hề phàn nàn hay tỏ ra không thích.
Nếu có thể giúp đỡ ai điều gì thì Thầy Isiđôrô liền
giúp ngay. Nhưng trái lại, khi Thầy cần thì lại không xin ai
giúp cả. Lần kia có hai người tính tình không được chăm
chỉ và hăng hái cho lắm được chỉ định giúp Thầy làm bếp.
Có khi sau cả buổi mà hai người cũng không gọt đủ số
khoai để dùng; lúc khác thì không chịu chu toàn những việc
đã được trao phó ở trong bếp. Thay vì phàn nàn, Thầy Isiđôrô
đã hy sinh làm thay họ, cho đến khi một Thầy khác thấy điều
đó không công bằng đối với Thầy Isiđôrô nên đã trình
bày cho Bề trên biết.
Thầy Isiđôrô coi những điều mong ước của Bề trên như
những huấn lệnh chính Thiên Chúa trực tiếp ban bố. Một lần
trong thời kỳ Đệ I Thế Chiến, các Thầy được khuyên nên
dời khỏi tu viện để tránh những nguy hiểm có thể xảy đến.
Các Bề trên đã cho hầu hết các Thầy đến nơi an toàn ở
Hoà Lan, chỉ để lại một vài người coi tu viện. Khi được
hỏi là Thầy muốn ở lại hay muốn đi, Thầy Isiđôrô đã
can đảm sẵn sàng ở lại dù biết rằng đó là một công việc
hết sức nguy hiểm. Một nghĩa cử tùng phục anh hùng khác đã
diễn ra trên giường chết. Lúc đó, Thầy đã thú nhận với
một tu sĩ khác là mình đã sẵn sàng để từ giã cõi đời.
Dù vậy Thầy nói: "Vì các Bề trên không muốn, nên tôi
vẫn sống".
Vào mùa hè năm 1911, Thầy Isiđôrô đã mắc phải chứng bệnh
đau mắt kịch liệt. Tuy các bác sĩ nhận thấy sự đau đớn
có thể thật dữ dội, nhưng Isiđôrô vẫn không hề nhắc đến
mãi cho đến khi chứng bệnh trở nên trầm trọng đến nỗi
Thầy không thể chịu đựng được. Sau khi khám nghiệm, người
ta khám phá ra là Thầy bị ung thư ở con mắt bên phải và họ
miễn cưỡng phải lấy con mắt ra. Sau đó Thầy lại biết
thêm là mình cũng bị ung thư ruột và chỉ có thể sống
thêm vài năm nữa. Thầy bình tĩnh vui nhận. Thầy viết thư
cho song thân: "Phó mặc cho Thánh Ý Thiên Chúa, chúng ta sẽ
tiến bước vững vàng. Xin Chúa ban cho con được vui chịu mà
không than phiền".
Đến năm 1914, Thầy được trao phó công việc coi cửa tu
viện ở Kortrijk. Đây là công việc gây nên nhiều phân tâm
nhất và có thể nói là công việc không một tu sĩ nào thích
làm. Khi chuông cổng reo lên, người giữ cửa phải ngừng các
công việc mình đang làm, cả khi đang trong giờ kinh nguyện,
để ra đón khách. Thầy Isiđôrô vui vẻ chu toàn công việc
này. Vừa khi nghe được tiếng chuông, Thầy liền đi ngay và
hân hoan tiếp đón tất cả những ai đến.
Đến cuối mùa hè 1916, sau những năm tháng yếu bệnh, Thầy
đã kiệt sức. Chứng bệnh sưng màng phổi biến chứng khiến
Thầy phải nằm dưỡng bệnh, và bác sĩ cho biết chứng ung
thư đang lan nhanh. Càng gần đến những ngày cuối đời, những
trận tấn công càng trở nên đau đớn dữ dội. Sau cùng, Thầy
không thể nằm trên giường được nữa; khi cơn đau quá dữ
dằn, Thầy thường ngồi trên một chiếc ghế và tựa đầu
vào chỗ để tay. Tu sĩ y tá được chỉ định chăm sóc Thầy
sau này quả quyết rằng không hề nghe một lời nào phàn nàn
nơi Thầy Isiđôrô. "Khi tôi hỏi Thầy về tình trạng sức
khoẻ của Thầy thì Thầy chỉ đáp rằng Thầy hối tiếc vì
không thể cám ơn Chúa sau khi rước Mình Thánh một cách sốt
sắng hơn và Thầy xin tôi giúp". Thầy Isiđôrô cảm thấy
rất rõ sự đau đớn đã khiến Thầy khá phân tâm trong các
giờ kinh nguyện, làm cho Thầy không thể tập trung được. Mặc
dù trong lúc lâm chung, Thầy được sự an ủi của các tu sĩ
cùng Dòng, nhưng Thầy đã không được sự an ủi là gặp
được cha mẹ yêu dấu một lần cuối. Dù vậy, Thầy không
hề phàn nàn về điều này.
Khoảng một giờ sáng ngày 6 tháng 10 năm 1916, Thầy Isiđôrô
đột nhiên kêu lên: "Thưa Cha Bề trên, xin Cha cho gọi
các anh em trong nhà, vì con sắp chết rồi". Có một Cha
lúc đó đang ở trong phòng nói rằng ngài cảm thấy chưa đến
giờ, nhưng vì sự nài nỉ của Thầy Isiđôrô, toàn thể cộng
đồng đã được gọi đến. Thầy Isiđôrô khiêm nhượng xin
mọi người tha thứ những lầm lỗi Thầy có thể đã lỗi
phạm và hứa sẽ cầu nguyện cho mỗi người khi mình về
thiên đàng. Đang khi tựa đầu vào cánh tay Cha Bề trên, Thầy
đã êm ái trút hơi thở cuối cùng để ra đi lãnh phần thưởng
Chúa ban. Hai ngày sau, nhà dòng đã âm thầm an táng Thầy.
Con số những người đến thăm mộ và xin Thầy cầu nguyện
cho ngày càng gia tăng. Trong một thời gian ngắn, nhiều người
cầu xin những ơn hồn xác và đã được nhận lời. Chẳng
bao lâu, danh tiếng Thầy vượt ra ngoài nước Bỉ, người ta
bắt đầu tuôn đến từ các nước tại Âu châu. Việc điều
tra của giáo phận đã bắt đầu năm 1950. Hai năm sau, án
phong thánh đã được chuyển về Rôma. Đến ngày 30 tháng 9 năm
1984, Thầy Isiđôrô Giuse được Đức Gioan Phaolô II nâng lên
bậc Chân phước.
(Trích "Chứng Nhân Chúa Kitô" Rev John, CMC biên
soạn & Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saint và
Santi-Beati-Testimoni)
|