Ngày 26 tháng 9
Bl. Kaspar
Stanggassinger, CsSr
Linh Mục
(1871-1899)
Cha
Stanggassinger viết: “Các thánh có trực giác đặc
biệt. Còn kẻ không phải là đấng thánh như tôi thì
có những chân lý giản đơn bất diệt: Nhập Thể,
Cứu Độ và Thánh Thể”.
Cha
Kaspar Stanggassinger sinh năm 1871 ở Berchtesgaden, miền nam
nước Đức, là con thứ hai trong một gia đình 16 anh
chị em. Cha ngài là một nông dân được mọi người kính
trọng. Ông là chủ một mỏ đá.
Từ
thuở thiếu niên, ngài đã có ước mơ làm linh mục,
đóng trò “giảng” những bài giảng ngắn cho anh
chị em trong nhà và thường dẫn đầu cuộc “diễu hành”
đến nhà thờ nằm giữa vùng núi non gần nhà.
Từ
năm 10 tuổi ngài đến học ở Freising. Việc học hành
đối với ngài khó khăn hơn. Cha ngài bảo rằng ngài
sẽ phải từ giã trường lớp nếu không qua được các
kỳ thi. Với ý chí sắt đá, sự tận tụy phi thường
và trung thành cầu nguyện, Kaspar tiến tới đều đặn.
Những năm sau đó, vào mùa hè, ngài thường tập họp
trẻ con, khuyến khích chúng sống đạo, tổ chức thành
nhóm và sinh hoạt vào những giờ rãnh rỗi. Mỗi ngày
bọn trẻ họp nhau đi lễ, đi chơi hay hành hương. Sự
ân cần lo lắng của Kaspar đối với chúng thật đáng
khâm phục và vượt xa đến độ ngài đã liều mạng
cứu một cậu bé gặp hiểm nguy khi leo núi.
Năm
1890, ngài vào chủng viện giáo phận Munich và Freising
học thần học. Để thấy rõ hơn thánh ý Thiên Chúa,
ngài tự nguyện theo một thời biểu kinh nguyện khắt
khe. Ngay sau đó, ngài thấy rõ rằng Thiên Chúa muốn ngài
trở thành một tu sĩ. Thực vậy, sau một chuyến
viếng thăm các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, ngài cảm
thấy bị thúc giục bước theo ơn gọi thừa sai của
họ. Dù bị cha ngài phản đối, ngài vẫn vào nhà
tập tại Gars năm 1892 và chịu chức linh mục tại
Regensburg năm 1895.
Kaspar
Stanggassinger vào Dòng Chúa Cứu Thế với ý muốn trở
thành một nhà truyền giáo, vậy mà ngài lại được
bề trên chỉ định làm phó giám đốc đệ tử viện
Durrnberg gần Hallein để đào tạo những nhà truyền giáo
tương lai. Ngài dấn thân tận tụy hoàn thành trách
nhiệm này. Là một tu sĩ, ngài thi hành lời khấn vâng
phục, và sống lời khấn này một cách kiên trì và
trong sáng.
Mỗi
tuần ngài lên lớp 28 giờ nhưng các chú đệ tử lúc
nào cũng có thể gặp ngài. Vào ngày Chúa nhật, ngài
không bao giờ quên đến giúp các nhà thờ, nhất là giúp
công việc giáo huấn trong các làng lân cận. Dù có
một thời khóa biểu công việc như thế, ngài vẫn luôn
kiên nhẫn tìm cách thấu hiểu nhu cầu của người khác,
nhất là sinh viên. Nơi ngài, họ gặp một người bạn
hơn là một bề trên. Mặc dù luật lệ thời ấy rất
khắt khe nhưng Kaspar không bao giờ cư xử khắc
nghiệt. Bất cứ khi nào ngài cảm thấy sai trái với
ai đó, ngài lập tức hạ mình xin lỗi.
Nhiệt
thành với Chúa Giê-su Thánh Thể, ngài mời gọi các chú
đệ tử và các tín hữu mà ngài dạy dỗ hãy trông
cậy vào Bí tích Thánh Thể trong mọi lúc thiếu thốn
và lo âu. Ngài khuyến khích họ đến với Đức Ki-tô
như đến với một người bạn, dù là đến để thờ
phượng hay để chuyện trò. Giáo huấn của ngài luôn
là lời nhắc nhở những người tin hãy sống tốt đời
sống Ki-tô hữu, lớn lên trong lòng tin nhờ kinh
nguyện và luôn trò chuyện với Chúa. Cách thức của
ngài là tiếp cận và lôi kéo, không hăm dọa trừng
phạt, khác với cách giáo huấn thông thường thời
ấy.
Năm
1899, Dòng Chúa Cứu Thế mở học viện mới ở Gars.
Cha Stanggasinger được bổ nhiệm làm giám đốc, ngài
mới 28 tuổi. Ngài chỉ có thì giờ hướng dẫn một
cuộc tĩnh tâm cho sinh viên và dự lễ khai giảng năm
học. Ngày
26 tháng 9, do viêm màng bụng, cuộc hành trình trần
gian của ngài chấm dứt.
Việc
vận động phong Chân Phúc cho ngài bắt đầu năm 1935,
vào dịp di chuyển thi hài ngài vào nhà nguyện cạnh nhà
thờ Gars. Ngày
24 tháng 4 năm 1988, ngài được Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô
II phong Chân Phúc.
(Trích tư liệu Dòng Chúa Cứu Thế VN online & Nhóm
Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saint và
Santi-Beati-Testimoni)
|