Ngày 22 tháng 01

Bl. Laura Vicuna
(1891-1904)

Blessed Laura VicunaLaura Del Carmen Vicuna sinh trưởng trong một xã hội cũng như ngày nay, nhiều cặp vợ chồng sống trong tội lỗi. Lúc chết, Laura mới có 13 tuổi, nhưng ngay từ tấm bé, em đã hiểu được cuộc sống tội lỗi của mẹ em. Khi nhận thấy rằng không gì có thể làm cho mẹ em cắt đứt mối giây ràng buộc này, em đã tự ý dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa để cầu nguyện cho người mẹ thân yêu của em.

Laura Vicuna sinh tại Santiago, Chí Lợi, ngày 05 tháng 4 năm 1891. Cha em là một người lính thuộc gia đình quý phái. Ba tháng trước ngày Laura sinh ra, một cuộc cách mạng và nội chiến bùng nổ, nên ông Jose Domingo Vicuna đã cùng với vợ là bà Mercedes Pino và đứa con đầu lòng phải tị nạn chính trị tại vùng núi Andes.

Không lâu trước ngày sinh nhật thứ ba của Laura, và sau khi em của Laura là bé Julia chào đời, ông Vicuna bị giết, để lại người vợ goá nuôi dưỡng đoàn con thơ. Bà Mercedes đưa các người con gái bà đến thành phố Las Lajas, Argentina với hy vọng ở đây bà có thể tìm được việc làm nấu nướng hoặc giặt quần áo. Tại đây, bà gặp ông Manuel Mora, chủ một doanh trại lớn của vùng đó. Ông Manuel tình nguyện giúp đỡ bà, nhất là về tài chính, để con cái bà có thể đi học tại trường do các nữ tu Dòng Salesian (Nữ Tử Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp) coi sóc. Để đền đáp công ơn ông, bà Mercedes chấp nhận để làm vợ lẽ của ông.

Khi Laura được 8 tuổi, do sự đề nghị của một linh mục Dòng Salesian, bà Mercedes cho 2 chị em Laura đi học tại Junin. Đối với Laura, cuộc sống ở trường học thật hạnh phúc. Ở đây, Laura được học về Thiên Chúa và tình yêu của Người, và được dạy phải đáp trả tình yêu này bằng đức bác ái với chị em học sinh tại trường. Tại trường, Laura trổi vượt chúng bạn về thể thao, và là bạn của mọi người. Em giúp những bạn học nhỏ tuổi hơn em trong những công việc hằng ngày như dọn dẹp giường chiếu, chải tóc, hay may vá quần áo. Đôi khi em đóng vai sứ giả hoà bình mỗi khi những trẻ khác cãi lộn với nhau. Nếu Julia em của em có gì lầm lỗi, Laura nhẹ nhàng sửa lỗi cho em. Laura thực sự là mẫu gương cho mọi trẻ khác phải cố gắng noi theo. Thêm vào đó, em đứng đắn đoan trang và thông minh hơn những trẻ khác cùng tuổi. Ngay từ nhỏ, em đã có một sự hiểu biết sâu xa đối với đời sống cầu nguyện, thêm vào đó, vì có khiếu "lãnh đạo," nên em có thể tạo một bầu khí vui tươi sốt sắng nhiệt thành nơi các bạn bè.

Ngay kỳ nghỉ hè đầu tiên, em đã có thể nhìn ra lối sống tội lỗi của mẹ em. Thêm vào đó, ông Manuel thường hay say rượu, và trong những lúc này ông thường đòi ôm hôn Laura, em phải cố gắng lắm mới thoát khỏi bàn tay của ông. Sau khi biết được chuyện này, mẹ em yêu cầu ông đừng đụng đến con bà. Ông đã giữ như lời bà xin, nhưng trừ lúc ông say rượu. Nên những lúc ông say rượu, Laura phải tìm mọi cách để xa tránh ông.

Laura được Rước lễ lần đầu lúc 10 tuổi. Bà Mercedes đã đến Junin để tham dự buổi lễ; chính trong buổi lễ này, Laura nhận ra là mẹ em không chịu các bí tích. Và em cũng đã sớm nhận ra là mẹ em không được vui cho lắm. Nên em thường dâng lên Chúa lời nguyện này: "Lạy Chúa Giêsu, con mong muốn mẹ con biết Chúa nhiều hơn và được hạnh phúc".

Trong thời gian này, Laura ham muốn đời sống thánh thiện của các nữ tu. Các Sơ đã can đảm từ giã quê hương xứ sở và dâng hiến đời sống để phụng sự Chúa trong các nơi truyền giáo. Laura âm thầm hy vọng một ngày nào đó có thể theo gương các nữ tu này và trở thành một nữ tu. Có lần Laura nói: "Tôi muốn làm tất cả những gì tôi có thể để làm cho Thiên Chúa được hiểu biết và mến yêu". Một trong những lời nguyện của em là: "Lạy Chúa của con, con muốn mến yêu và phụng sự Chúa suốt đời con". Một lần nọ, lúc Laura được 11 tuổi, Đức Cha John Cagliero đến thăm trường em đang theo học, và Laura xin Đức Cha để được trở thành một nữ tu Dòng Salesian. Đức Cha liền cười và nói: "Hỡi con, hãy chờ một thời gian nữa". Nhưng Laura không muốn chờ. Nhiều lần Laura xin Cha giải tội của em cầu nguyện cho em và xin Chúa cho biết Thánh Ý Chúa đối với việc em muốn trở thành một nữ tu Dòng Salesian. Vị linh mục này rất thông cảm với em, và đồng ý là em thật sự có ơn gọi sống đời tu trì, nhưng cả hai đã giữ bí mật chuyện này.

Mùa hè năm 1901, Laura trở về nông trại để nghỉ hè. Hơn bao giờ hết, ông Manuel tỏ ra càng để ý đến Laura hơn, vì ông thường nịnh hót và hay làm phiền em. Với lời cầu nguyện và luôn thận trọng, em quyết chí bảo vệ đức trinh khiết của em. Hằng ngày, em luôn xin Chúa: "Lạy Chúa, xin đừng để con làm mất lòng Chúa."

Dù tìm mọi cách để tránh né, nhưng ngày kinh hoàng kia cũng đã đến; Laura bị ông Manuel bắt gặp đang ở một mình. Ông tiến lại gần, và tính làm những điều không hay, Laura phải cố gắng lắm mới thoát khỏi tay ông, rồi em chạy ra ngoài. Dù thoát thân, nhưng Laura biết là ông Manuel sẽ không chịu bỏ qua. Đúng như Laura đã tiên đoán, mấy hôm sau, trong một cuộc hội làng, ông Manuel tiến lại bên Laura, và mời em vũ với ông. Laura đã thẳng thắn khước từ, bất chấp lời đe doạ của ông Manuel và lời khuyên của mẹ em. Tối hôm đó, Laura phải tìm một chỗ thanh vắng để lẩn trốn, trong khi đó, ở nhà, ông Manuel tràn đổ cơn giận của ông trên người mẹ không may của em. Để trả thù, ông không chịu tiếp tục trả tiền học phí cho Laura, nhưng các Sơ tại trường biết được những gì đã xảy ra, nên sẵn sàng cho các em được học miễn phí. Nhưng vì bà Mercedes cảm thấy hổ thẹn với tấm lòng bác ái của các Sơ, nên chỉ cho Laura tiếp tục học, còn giữ em Julia ở nhà với bà.

Đến lễ Phục Sinh năm 1902, Laura được Đức Cha Cagliero cho chịu phép Thêm Sức. Sau đó, Laura nhận thấy em chưa dâng lên Thiên Chúa của lễ hy sinh cao trọng nhất để cầu cho mẹ em, nên Laura xin Cha giải tội để được phép dâng hiến chính mạng sống em cho Thiên Chúa xin ơn cải thiện cho mẹ em. Nhận thấy mình đang đối diện với đứa trẻ trước đây đã được lãnh nhận biết bao ơn phúc thiêng liêng, vị linh mục cho phép em làm như điều em xin.

Vào mùa đông năm 1903, Laura bị bệnh. Mẹ em xin em hãy trở về nhà với bà, nên Sơ giám đốc nói với Laura: "Mẹ con cần con hơn là con cần mẹ con. Con nên về". Tại nông trại, thay vì khoẻ hơn nhờ khí hậu trong lành và sự giúp đỡ của thân nhân, thì sức khoẻ của Laura mỗi ngày mỗi trầm trọng hơn. Trong lúc này, em cảm thấy của lễ hy sinh của em đã được Thiên Chúa chấp nhận, nên em không nghĩ là em sẽ khoẻ lại.

Lúc đầu, không mấy lúc ông Manuel ở trong nông trại, nhưng mỗi khi ông về, Laura nhận thấy ông rất lạnh nhạt với mẹ em, nhất là trong những lúc ông say rượu, ông nhìn Laura bằng một cặp mắt trong đó nói lên một khát vọng bất chính. Bà Mercedes cũng nhìn ra điều đó, nên dù bị đe doạ, bà cũng đã cùng với các con của bà dọn đến Junin, và mướn một căn nhà nhỏ để ở.

Đêm hôm 14 tháng 1 năm 1904, ông Manuel, với lòng tức giận, và say sưa trong rượu chè và dục tình, đã vào phố, và muốn nghỉ đêm tại nhà mẹ con bà Mercedes. Với một cái roi trên tay, ông bắt bà Mercedes phải bằng lòng cùng với các con của bà trở về nông trại với ông. Dù với thân hình rất mệt mỏi và xanh xao, Laura nhất quyết tuyên bố: "Nếu ông ở lại, con sẽ đi". Không chờ câu trả lời, cô bước ra ngoài.

Ông Manuel tức đến điên người. Ông liền đứng lên theo em ra ngoài, thấy nguy hiểm, bà Mercedes thất thanh bảo Laura chạy lẹ đi. Laura định chạy đến nhà các Sơ để trú thân, nhưng đến giữa đường thì bị ông Manuel đuổi kịp. Ông đánh, ông đá em, trong khi em nằm trên mặt đường kêu cứu. Có mấy người gần đó liền chạy ra, ông liền khiêng người em lên và định đặt lên lưng ngựa của ông, nhưng khi thấy nguy hiểm, ông lại ném em xuống đường, rồi bỏ đi.

Laura bị đánh bất tỉnh. Sức tàn của em còn kéo dài được 7 ngày, trong khi mẹ và em của Laura ngày đêm săn sóc cho em. Sau cùng, em tỏ cho mẹ em biết một bí mật mà em đã giấu mẹ từ lâu: "Thưa mẹ, con sẽ chết, nhưng con rất vui mừng để hy hiến cuộc đời con cho mẹ. Con đã xin Chúa điều này."

Bà Mercedes quỳ sụp xuống đất khóc nức nở. Bà rất biết nỗi lòng của con bà; bà liền xin Laura tha thứ cho bà, cũng như xin Chúa ơn tha thứ. Bà hứa sẽ sống một cuộc đời mới. Sáu giờ chiều ngày 22 tháng 01 năm 1904, Laura qua đời. Ngay sau đó, bà Mercedes đến nhà thờ xin lãnh ơn hoà giải. Nhờ người con gái dũng cảm của bà, bà đã trở về làm hoà với Thiên Chúa.

Dự án phong chân phước của địa phận được bắt đầu ngày 19 tháng 9 năm 1955, và Laura Vicuna đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công nhận các nhân đức anh hùng của Đấng Đáng Kính ngày 05 tháng 6 năm 1986 và hai năm sau Đức Thánh Cha đã tôn phong Chân phước Laura Vicuna ngày 3 tháng 9 năm 1988. Thánh tích được tôn kính tại nguyện đường của trường Nử Tử Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu tại Bahia, Argentina.

Bài đọc thêm: Phát hiện bức hình chân dung thật của Chân phước Laura Vicuna

(Trích "Chứng Nhân Chúa Kitô" Rev John, CMC biên soạn & Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saint và Santi-Beati-Testimoni)