Ngày 11 tháng 5

Bl. Zepherin Namuncura
(1886-1905)

Zepherin Namuncura sinh ngày 26 tháng 8 năm 1886 tại Chimpay. Từ ngày mở mắt chào đời Zepherin Namuncura được tiền định trở nên người lãnh đạo của bộ lạc Araucano thuộc miền Pampas, nước Á Căn Đình. Zepherin là người con thứ 8 trong 12 anh chị em của ông tù trưởng bộ lạc, ông Manuel Namuncura. Sau này, lúc đã đến tuổi thành niên, vì có khả năng, và nhất là với trí thông minh, anh đã được chọn để thay Cha lãnh đạo bộ lạc hiếu chiến và hung dữ này. (Theo phong tục, một người trong gia đình sẽ kế vị, nhưng không buộc phải là con trưởng). Nhưng, Zepherin đã dùng cuộc đời ngắn ngủi để tự đào luyện mình trở nên một người lãnh đạo tinh thần. Khát vọng của anh là có thể hướng dẫn dân tộc mình đến tin thờ một Thiên Chúa chân thật.

Không lâu sau ngày Zepherin sinh ra, bộ lạc Araucano, dưới sự lãnh đạo của ông Manuel, đã mở một cuộc tấn công dữ dội sau cùng chống lại quân thực dân Âu Châu đang muốn thôn tính đất nước ông. Cả hai bên đều có những hành động thật dã man đối với nhau. Sau cùng, tướng Julio Roca, Tổng trưởng Bộ Quốc Phòng Á Căn Đình, đã nhất quyết tiến quân với một đoàn binh hùng hậu với ý định tiêu diệt bộ lạc Araucano. Trong trận chiến chớp nhoáng này, quân lính giết được 2000 người mọi trong đó có cả vợ và 4 người con ông Manuel Namuncura. Để tránh khỏi bị tiêu diệt, chỉ có một cách là đầu hàng.

Qua cuộc điều đình của một vị linh mục Dòng Sa-lê-diêng, người ông Manuel tin tưởng, một hiệp ước đã được thành lập: Họ chịu mất vùng đất thuộc về bộ lạc, và tù trưởng của họ sẽ được làm đại tá trong quân đội Á Căn Đình. Hiệp ước này lại được sửa đổi năm 1894, lần này cả bộ lạc bị đẩy xa hơn về hướng tây, đến một vùng thung lũng đất rất xấu gần Alumine, thuộc miền núi Andes.

Khi Zepherin được 2 tuổi, ông Manuel trao con ông cho một vị linh mục Dòng Sa-lê-diêng, Cha Dominic Milanesio, và thưa với Ngài rằng xin dâng người con này, người lãnh tụ tương lai của dân tộc, để được giáo hoá trong tôn giáo của người da trắng. Tại giếng Rửa tội, vị linh mục đã đặt tên thánh cho em là Zepherin, để kính nhớ một vị Giáo Hoàng tử đạo vào thế kỷ thứ ba. Tên "Zepherin" có nghĩa là "gió", nên rất có thể là vị linh mục này mong rằng vị lãnh đạo tương lai của dân Araucano sẽ là một luồng gió mát dập tắt ngọn lửa chiến chinh trong tâm hồn của bộ lạc này.

Năm 1897, ông Manuel quyết định thi hành quyền làm tướng trong quân đội của ông, và ông đã đem Zepherin, lúc này mới 11 tuổi, để yêu cầu cho em được gia nhập trường võ bị El Tigre. Ông Manuel có ý cho con ông vào đây để học được những binh pháp của người da trắng. Nhưng không may, Zepherin lại là một trẻ mọi duy nhất trong trường, nên các bạn học có những thái độ tàn nhẫn đối với em. Zepherin buồn sầu đến nỗi bắt đầu gầy đi và bị bệnh. Sau đó, theo lời đề nghị của Cha Dominic, Zepherin được chuyển đến một trường của Dòng Sa-lê-diêng ở Buenos Aires.

Tại trường mới, Zepherin chăm chỉ học hành, nên so với các bạn học, điểm của em cũng trên trung bình. Dù vậy, mỗi lần nói đến sách vở, Zepherin không phải là người sáng trí cho lắm, nhưng theo lời thầy giáo của em, Zepherin là người thật "hiếu hoà". Và dù là phải vất vả lắm mới giữ được những chương trình và kỷ luật, vì đã quá quen với đời sống tự do, Zepherin luôn sống vui tươi với chúng bạn. Khi được hỏi em ưa thích điều gì nhất tại trường, Zepherin trả lời: "Nhà thờ và đồ ăn," nhưng em vẫn than phiền rằng em vẫn không được ăn "bánh" tại bàn thờ. Mãi đến năm Zepherin 12 tuổi, chú "tù trưởng" tương lai này mới được dùng "của ăn" này.

Một ngày nọ, đang trong lúc giảng bài, thầy giáo của em thường thấy em nhìn ra ngoài cửa sổ, và giống như đang mơ mộng gì đó. Nhưng mỗi lần ông hỏi Zepherin câu nào, em đều có thể trả lời ngay, nên ông không thể trách em điều gì được. Dù vậy, ông cũng không cho em ngồi gần cửa sổ nữa. Sau giờ học đó, Zepherin xin thầy giáo cho phép em được trở về chỗ cũ. Khi hỏi tại sao, em nói rằng khi ngồi gần cửa sổ em có thể thấy ngọn đèn chầu đang cháy gần Chúa Giêsu trong nhà thờ. Dĩ nhiên, sau khi hiểu được ý của em, thầy giáo liền chiều theo ý muốn của em.

Là một người thích thiên nhiên, nên Zepherin cũng rất yêu chuộng thể thao. Em cưỡi ngựa thật giỏi, và có biệt tài về môn bắn cung. Đôi tay khéo léo của em thường bận bịu luôn với việc làm cung và tên cho chúng bạn và cho chính mình; đôi khi các bạn của em tổ chức cuộc thi bắn cung, và người được chỉ định làm trọng tài chính là Zepherin.

Trong thời gian trú học tại đây, cha của Zepherin có đến thăm em một lần, và cha em được coi là một vị thượng khách. Cha con được những ngày thật hạnh phúc bên nhau. Khi ông Manuel ra về, ông đã cho Zepherin 10 đồng với lời căn dặn là để dùng vào những việc em thích. Vì cũng như các trẻ khác tại trường, Zepherin thật là nghèo. Quần áo Zepherin mặc thường là những quần áo cũ được chuyển xuống từ những người anh, nên với 10 đồng này, em có thể mua một bộ quần áo mới. Vì thế, vị linh mục coi sóc em thật ngỡ ngàng khi thấy em đem số tiền đó đến cha ngay sau khi cha em ra về, để xin Ngài dùng vào việc trang hoàng toà Đức Mẹ. Nhưng cha không nhận và nói rằng đó là tiền để cho em dùng việc riêng của em. Em liền thưa với cha rằng nếu số tiền đó được dùng vào việc tôn kính Đức Mẹ, thì em sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn. Zepherin còn thêm là em muốn Đức Mẹ thật sự trở nên Nữ Vương của dân tộc em.

Dù tính tình dễ dãi và chân thành của Zepherin làm cho em trở thành một học sinh dễ mến, nhưng đôi lúc bạn bè của em cũng vô ý nói những điều làm cho Zepherin rất đau lòng. Một lần nọ, trong khi nói chuyện về dân mọi, một bạn học của em vô ý đã hỏi Zepherin xem thịt người có mùi vị gì? Không cầm hãm được nỗi buồn trong lòng, Zepherin đã cúi mặt xuống và để hai hàng lệ tuôn rơi trên gò má. Dù vậy, Zepherin đã không muốn trách người bạn vô tình này; em liền tiếp tục câu chuyện, nhưng không trả lời câu hỏi của bạn.

Ngày tháng trôi đi thật mau, Zepherin được 17 tuổi, và cũng đã đến lúc phải xa mái trường đã dày công dạy dỗ anh trong những năm qua. Zepherin được hỏi sau này muốn làm gì và Zepherin trả lời là muốn làm linh mục để có thể đem đạo chân thật đến với dân tộc của anh, và mở trường học cho các trẻ em thuộc bộ lạc Araucano. Đức Cha Cagliero và linh mục Giám đốc Dòng Sa-lê-diêng rất mến chàng thanh niên đầy nghị lực này, nên sau khi cho Zepherin biết là chương trình học linh mục không phải dễ dàng, đã sắp xếp để cho Zepherin nhập tiểu chủng viện tại Viedma.

Tại chủng viện, Thầy Zepherin được mọi người quý mến. Thầy tham dự các cuộc chơi thể thao cũng như săn bắn để giải trí, cũng như chăm chỉ học hành, nên không lâu Thầy đã đứng thứ nhì trong lớp. Thầy cũng rất thích dùng các lá bài để làm ảo thuật. Zepherin luôn nhớ lời một vị linh mục truyền giáo tại quê hương Thầy đã nói: "Hãy phụng sự Chúa trong vui tươi".

Thêm vào việc học hành và giải trí, trong thời gian này Thầy Zepherin cũng rất tấn tới trên đường nhân đức. Thầy thường quỳ trước Chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện cho dân tộc Thầy. Vị "tù trưởng" tương lai này vẫn không thể quên nguồn gốc của mình, vì Thầy mãi mãi là một người dân mọi. Một việc sùng kính Thầy ưa thích nhất là lần hạt Mân Côi, cũng là để cầu nguyện cho dân tộc Thầy. Một trong những người bạn cùng lớp sau này đã nói: "Trong sáu tháng sống bên cạnh Zepherin, tôi thấy Thầy làm sống lại tất cả những nhân đức mà tôi đã đọc được trong đời sống của Dominic Savio".

Vào ngày 24 tháng 9 năm 1903, được phép Cha Giám Đốc, Thầy Zepherin tổ chức một cuộc rước tôn kính Đức Mẹ Thương Xót. Tối hôm đó, Zepherin lên giường với thân xác thật mệt nhọc sau một ngày làm việc. Lúc tỉnh dậy, Zepherin thấy mình bị ho ra máu. Một chứng bệnh đang từ từ tiêu diệt bộ lạc của Thầy, giờ đây cũng không dung tha cho Thầy: Zepherin đã bị bệnh ho lao.

Vừa khi biết được tình trạng sức khoẻ của Zepherin, Đức Cha liền cho Thầy vào bệnh viện Viedma. Trong thời gian nghỉ bệnh, vị tuyên úy bệnh viện nói về Zepherin như sau: "Tù trưởng trẻ tuổi này rất ít nói chuyện. Chúng tôi luôn có cảm tưởng là Zepherin sống trong sự cầu nguyện liên lỉ. Zepherin không bao giờ tỏ dấu bất nhẫn hay chán nản. Với một nụ cười trên môi, Zepherin cám ơn mọi người đã giúp đỡ Thầy, và tuân theo bất cứ lời chỉ dẫn nào".

Đến tháng 4 năm 1904, Đức Thánh Cha Piô X cất nhắc Đức Cha Caliegro lên Tổng Giám Mục, và triệu Ngài về Rôma. Nhân tiện, Đức Tổng Giám Mục cũng hỏi Zepherin có muốn theo Ngài đi Rôma, và ở lại đó để tiếp tục chương trình học linh mục kông. Vì Ngài hy vọng thời khí ấm áp sẽ giúp cho sức khoẻ của Zepherin.

Sau một tháng trên biển cả, Đức Tổng Giám Mục và Thầy chủng sinh trẻ đã đặt chân lên vùng đất Âu Châu. Đối với Zepherin, mọi sự đều thật lạ lùng, nhưng điều làm Zepherin chú ý nhất là bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp trong Vương cung Thánh đường tại thành Turinô. Bức ảnh này như nam châm, lôi kéo Zepherin đến cầu nguyện để xin sự phù trợ cho dân tộc của Thầy.

Vị linh mục coi sóc Zepherin trong khi Thầy học tại Turinô đã có những lời sau đây nói về Zepherin: "Lần nào tôi muốn tìm Thầy, tôi cũng thấy Thầy cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp". Khi hỏi Thầy cầu nguyện với ý chỉ gì, Thầy luôn trả lời, "Con cầu cho đồng bào của con".

Tại Turinô, Zepherin được hân hạnh chứng kiến vài biến cố quan trọng. Zepherin được chứng kiến cuộc di chuyển thi hài Thánh Gioan Bosco; và cùng với Đức Tổng Giám Mục Cagliero, được yết kiến tư với Đức Thánh Giáo Hoàng Piô X. Trong một lần triển lãm về truyền giáo tại Turinô, Zepherin đã mặc bộ đồ dân da đỏ để triển lãm y phục của dân tộc mình. Tư cách và sự tài khéo của Thầy khiến cho nhiều người phải chú ý, trong số đó có một mệnh phụ đã xin Thầy hướng dẫn đi xem các đồ vật được trưng bày. Mệnh phụ đó chính là Hoàng hậu nước Ý.

Trong thời gian đầu, Zepherin theo học ở một chủng viện tại Turinô. Cha giám đốc đã nói về Thầy: "Thầy có một trái tim nóng cháy tình yêu Chúa. Đó là một trái tim vàng, không thấy sự dữ gì nơi người khác. Thật là một hạnh phúc được nghe Thầy nói về Thiên Chúa và Đức Mẹ. Thầy yêu Chúa như chúng ta yêu mẹ chúng ta... nồng nàn, mạnh mẽ, như Thầy luôn ở trước tôn nhan Thiên Chúa". Nhưng thật không may, khí hậu của Turinô không ích lợi gì cho sức khoẻ của Thầy, nên Thầy đã được chuyển về một chủng viện cách Rôma một vài dặm.

Đến tháng 3 năm 1905, bệnh tình của Zepherin trở nên trầm trọng. Thầy xuống cân một cách mau chóng, và Thầy cảm thấy rất đau đớn. Dù vậy, sự hiền lành và vui tươi vẫn không rời khỏi cặp mắt của Thầy. Về thời gian này, Cha linh hướng của Thầy viết như sau: "Mỗi ngày sức khoẻ của Thầy mỗi sa sút, nhưng không bao giờ Thầy bất mãn. Thầy đau đớn, nhưng luôn hăng hái can đảm ôm ấp thánh giá của mình".

Thầy Zepherin được chuyển đến một bệnh viện do các sư huynh tại Rôma điều khiển. Ở đây Thầy can đảm chấp nhận mọi thánh giá đau đớn và luôn dùng tràng hạt Mân Côi để cầu nguyện cho đồng bào. Chúa đã gọi Thầy về ngày 11 tháng 5, bên giường có mấy sư huynh hiện diện cầu nguyện cho Thầy. Thầy Zepherin được mai táng tại Rôma, nhưng sau đó, vì lời yêu cầu của dân trong bộ lạc, thi hài của Thầy được đưa về Patagonia vào năm 1924, và được chôn cất tại trường Fortin Mercedes của Dòng Sa-lê-diêng. Thầy Zepherin được Đức Thánh Cha Phaolô VI nâng lên bậc Đáng Kính ngày 22 tháng 6 năm 1972 và Đức Giáo Hoàng Benedictus XVI đã tôn phong Chân Phước cho thầy ngày 11 tháng 11 năm 2007.

(Trích "Chứng Nhân Chúa Kitô" Rev John, CMC biên soạn & Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saint và Santi-Beati-Testimoni)