Ngày 02 tháng 4

Bl. Pope John Paul II (Karol Joseph Wojtyla)
(1920-2005)

Giáo hoàng Gioan Phaolô II tên thật là Karol Josef Wojtyla, sinh ngày 18/5/1920 tại Wadowice, Ba Lan. Khi còn trẻ ngài rất năng động trong mọi lãnh vực: tri thức, hoạt động xã hội, thể thao lẫn kịch nghệ...

Là một chủng sinh trong thời thế chiến thứ hai, Ngài phải học thần học chui và được bí mật chịu chức linh mục ngày 1/11/1946. Sau đó qua Ý học và năm 1948 cha Wojtyla hoàn tất văn bằng tiến sĩ thần học tại Roma.

Từ năm 1948 đến 1951, cha Karol Wojtyla làm linh mục phụ trách giáo xứ ở thủ đô Krakow, một đô thị cổ nổi tiếng của xứ Ba Lan. Ngài nghiên cứu triết học và giảng dạy môn đạo đức học tại học viện Công giáo ở Krakow từ năm 1952-1958, đồng thời cũng là giáo sư tại Đại học Liblin vào năm 1956. Năm 1960 Ngài được Ðức Piô XII bổ nhiệm làm giám mục phụ tá của Tổng giáo phận Krakow và ngày 30/12/1963, Ðức Phaolô VI nâng Ngài lên làm Tổng giám mục cai quản giáo phận Krakow. Ít lâu sau Ðức Phaolô VI lại nâng Ngài lên làm Hồng y giáo chủ của Ba lan ngày 26/6/1967.

 



Ngày 16/10/1978 Ngài đắc cử  Giáo Hoàng thứ 264 kế vị ngai tòa Thánh Phêrô và  người kế nhiệm Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ I - vị giáo hoàng của vầng trăng - vì triều đại Ngài vỏn vẹn 33 ngày. Đây là vị Giáo hoàng đầu tiên không phải là người Ý trong suốt 600 năm kể từ thời Giáo hoàng Hadrian VI (1459-1523). Ngài đã chọn tên hiệu kép là Gioan Phaolô II. Khi Đức Hồng Y Jean Villot, niên trưởng hỏi: "Ngài lấy tước hiệu nào?". Vị Tân Giáo Hoàng đáp: "Vì lòng tôn kính, mến yêu và nhiệt tình đối với vị tiền nhiệm Gioan Phaolô I và với Đức Phaolô VI là nguồn soi sáng và sức mạnh của tôi, tôi xin chọn tên Gioan Phaolô Đệ Nhị (Gioan Phaolô II)"



Ngài là một văn thi sĩ, là một triết gia, một nhà huyền bí, một linh mục, một giám mục, một Tổng Giám Mục, một Hồng Y, một nhà giảng thuyết và là một vị Giáo hoàng có tầm ảnh hưởng bao trùm toàn cầu... Mà nhà viết hồi ký George Weigel gọi Ngài “không đơn thuần là một con người của thế kỷ, mà là một vị tiên tri của kỷ nguyên mới”. Thật vậy cả thế giới biết tới Ngài, mang ơn Ngài là Người đã đóng vai trò chủ động trong việc làm cho thể chế Cộng Sản sụp đổ tại Âu Châu. Là gạch nối liên kết và hòa giải những tranh chấp giữa các quốc gia dân tộc, là linh hồn của giới trẻ toàn cầu, đặc biệt trong những ngày Ðại Hội Giới trẻ Quốc tế hay những cuộc công du tới các quốc gia. Ngài đã được trao tặng Gỉai Nobel, giải thưởng Hòa Bình, một gỉai thưởng cao qúi nhất.



Ngài là vị Giáo hoàng trị vì lâu thứ ba trong lịch sử  Giáo Hội sau Thánh Phêrô. Thánh Phêrô đã trị vì Giáo Hội 34 năm, còn triều đại Ðức Gioan Phaolô II kéo dài 26 năm, 5 tháng và 17 ngày. Ngài là vị Giáo Hoàng đã siêu việt vượt xa tất cả mọi vị Giáo Hoàng trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo. Ngài đã thực hiện 104 chuyến công du quốc tế, đặt chân đến 129 quốc gia khắp năm châu bốn bể và bay tổng cộng 27 lần vòng quanh trái đất. Riêng trong nước Ý Ngài thực hiện 146 chuyến viếng thăm mục vụ.

Ngài đã tôn phong 482 vị Hiển Thánh và 1,338 Chân Phước nhiều hơn tất cả số các vị đã được phong thánh trong lịch sử Giáo Hội từ trước tới giờ cộng lại. Ngài đã cất nhắc 231 hồng y, một con số đông nhất trong lịch sử Giáo Hội. Ấy thế mà Ngài lại rất khiêm nhường, rất nhạy cảm trong mọi vấn đề nhất là với các vấn đề đại kết và chính trị quốc tế. ..



Ngày 13 tháng 5 năm 1981, Ali Aga một tay súng người Thổ Nhĩ Kỳ đã mưu sát Ngài ngay tại Quảng trường Thánh Phêrô ở Roma nhưng bất thành. Tháng 12 năm 1983 đích thân Ngài đã vào tù để thăm và tha thứ cho kẻ đã bắn Ngài. Ngài đã tặng Ali một chuỗi tràng hạt Mân Côi bằng bạc và tượng Mẹ Maria bằng cẩm thạch. Chính Ali đã tự thú là Ðức Mẹ Fatima đã cứu Ngài, vì không ai sống sót trước viên đạn của anh ta, thế mà dù Ðức Thánh Cha lãnh đủ ba viên đạn xuyên vào bao tử mà vẫn còn sống... Hành động độ lượng khoan dung của Ngài khiến Ngài được mọi giới trên khắp thế giới kính trọng yêu mến và thán phục.

Dẫu vậy, Ngài cũng không tránh khỏi những phê bình, chỉ trích và chống đối đặc biệt trước những vấn đề gây tranh cãi như ly dị, phương pháp ngừa thai và phá thai, hôn nhân đồng tính và sự chung sống tiền hôn v.v...

Ngài có lập trường kiên định về các vấn đề vốn gây nhiều tranh cãi, như bảo vệ mạng sống con người chống lại tệ nạn phá thai, giữ vững đời sống độc thân của Linh Mục, không chấp nhận phụ nữ làm Linh Mục. Các phái đoàn đại diện Tòa Thánh Rôma tham gia tích cực vào Hội Nghị LHQ về Dân Số và Phát Triển, tại Cairô ngày 15-9-1994; hằng năm ngài gởi nhiều Tâm Thư–nhất là vào dịp Lễ Dầu, Thứ Năm Tuần Thánh, đến để cổ võ và củng cố niềm tin của các Linh Mục. 

Kỷ niệm Kim Khánh 50 Năm Linh Mục của ngài ngày 1-11-1946/1996, ngài đã gởi tác phẩm "Quà Tặng và Huyền Nhiệm" để chia sẽ các Linh Mục bao cảm nghiệm thâm sâu và trách nhiệm cao đẹp của ngài về thiên chức Linh mục. Nhân dịp bế mạc Năm Thánh Mẫu 15-8-1988, ngài ban hành tông thư Mulieris Dignitatem–Về Phẩm Chức Người Phụ Nữ, nói về phẩm giá và ơn gọi của nữ giới. Ngày 29-6-1995, ngài gởi Tâm Thư bày tỏ tình đoàn kết và lòng tri ân đối với nữ giới, nhân dịp Hội Nghị Về Phụ Nữ tại Bắc Kinh vào trung tuần tháng 7-1995.

Ngài chú tâm đến Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo và đã ban hành tông tuấn Fidei Depositum–Kho Tàng Đức Tin, ngày 11-10-1992, nhân dịp phát hành Sách Giáo Lý mới của Giáo Hội như một công tác lớn mà Công Đồng Vaticanô II ủy thác phải chu toàn. Trước đó, vào dịp kỷ niệm một năm lên ngôi Giáo Hoàng, ngày 16-10-1979, ngài đã ban hành Tông huấn Catechesi tradendi hướng dẫn về Việc Dạy Giáo Lý.

Đức Gioan Phaolô II thi hành sứ mạng giảng huấn. Ngài đã ban hành khoảng 13 thông điệp, trong đó có Redemptor Hominis–Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại (4-3-1979), Veritatis Splendor – Huy Hoàng Chân Lý (1993), Evangelium Vitae–Tin Mừng Sự Sống (25-3-1995), và Ut Unum Sint–Xin Cho Được Hiệp Nhất (25-5-1995); 31 tông thư trong đó có 16 Thư gởi các Linh Mục; và khoảng 17 tông huấn, trong đó có Familiaris Consortio–Về Gia Đình (22-11-1981), Christifideles Laici–Người Tín Hữu Giáo Dân (30-12-1988), và Fidei Depositum–Kho Tàng Đức Tin (11-10-1992). 

Hiện đã có một bộ sưu tập lớn các tài liệu giảng huấn này, tạo thành pho sách cả ngàn trang, giảng giải ý nghĩa, đường hướng của các Văn kiện Công Đồng Vaticanô II áp dụng vào cuộc sống đạo của Giáo Hội Dân Chúa trong thế giới ngày nay. Giáo huấn của Đức Gioan Phaolô II có ảnh hưởng rất lớn vào cục diện thế giới. Điển hình như thi hành sứ mạng cứu chuộc của Chúa Giêsu, thông điệp đầu tiên của ngài–Redemptor Hominisấng Cứu Chuộc Nhân Loại (4-3-1979)

Đức Gioan Phaolô II luôn luôn nhiệt tình với đường hướng Hiệp Nhất Kitô-Giáo của Công Đồng. Ngài vừa tiếp nối hoạt động của Đức GH. Phaolô VI trong việc gặp gỡ, thảo luận với các Giáo Chủ Giáo Hội Chính Thống, Tin Lành, Hồi Giáo, Do Thái Giáo. Đáng chú ý nhất là cuộc tiếp xúc thân mật Gioan Phaolô II với Đức Athanagoras I, Thượng Phụ Chính Thống Giáo Trung Đông, ngày 29-11-1979, tại Phanar, Istanbul; cuộc gặp gỡ Gioan Phaolô II với ngài George L. Carey, Tổng Giám Mục Canterbury, ngày 8-12-1996, tại Vatican. Từ 23 đến 29-6-1997, đã diễn ra Hội Nghị Đại Kết Lần Thứ Hai tại Graz ở Aùo, từ 23 đến 29-6-1996. Nay chỉ còn khó khăn là cuộc gặp gỡ giữa Đức Gioan Phaolô II và Đức Thượng Phụ Alexi II Chính Thống Nga, mà đáng lẽ đã được diễn ra tại tu viện Cistercian ở Heiligenkreux, ngoại ô thủ đô Vienna, Áo Quốc, vào ngày 21-22 tháng 6, 1997. Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu nguyện.

Năm 2000, đỉnh cao của triều đại Gioan Phaolô II. Tông thư Tertio Millenio Adveniente–Ngàn Năm Thứ Ba Sắp Đến (10-11-1994) chuẩn bị Năm Đại Thánh 2000, mừng kỷ niệm 2000 năm Chúa Cứu Thế giáng trần.

Trong những năm gần đây, sức khoẻ của Ngài bị xút giảm nhiều: đầu năm 1992 Ngài phải giải phẫu cắt khối u trong ruột, năm sau giải phẫu vai và năm 1994, Ngài bị gãy xương đùi, năm 1996 mổ cắt ruột dư, 2001 Ngài mắc chứng bệnh Parkinson... Đầu năm nay 2005, Ngài phải giải phẫu mở ống khí quản rồi sức khoẻ của Ngài bị suy xụp đưa tới những giờ phút nguy kiệt hôm nay... Ngài qua đời ngày 02 tháng 4 năm 2005 tại Vatican và được chôn cất trong hầm mộ VCTĐ Thánh Phêrô. 

Ngày 13 tháng 5 năm 2005 lễ Đức Mẹ Fatima, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI chính thức ban phép chuẩn cho mở án phong chân phước cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Và Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã công nhận các nhân đức thánh thiện anh hùng của Đấng Đáng Kính Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ngày 09 tháng 12 năm 2009. 

Ngày 14 tháng 1 năm 2011, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI cho phép công bố nhìn nhận một phép lạ khỏi bệnh Parkinson một cách lạ lùng của nữ tu Marie Simon Pierre Normand dòng Tiểu Muội Bảo Sanh Công Giáo (Petites Soeurs des maternités Catholiques) tại Pháp nhờ lời chuyển cầu của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và ấn định lễ tuyên phong Chân Phước ngày 01 tháng 5 năm 2011 ngày Chủ Nhật Thứ 2 Phục Sinh Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót.

Bài đọc thêm :

Cuộc khỏi bệnh Parkinson một cách lạ lùng của nữ tu Marie Simon Pierre Normand, người Pháp.

(Nhóm Tinh Thần tổng hợp theo Patron Saints & Santi-Baeti-Testimoni & Vietcatholic)