Khi còn nhỏ Phêrô Romancon thường bị chúng bạn gọi là
"tép" vì thân hình bé nhỏ của em. Khi làm giấy khai
sinh, vài người bạn phải đi theo để làm chứng, vì ba em
không viết nổi tên của ông nữa. Cả cha mẹ của Phêrô đều
không biết chữ, nhưng họ nhất quyết sẽ cố gắng để cho
con họ được học hành. Họ đã bớt những công việc đồng
áng để Phêrô có giờ đến trường học.
Cha mẹ của Phêrô đều không được học, nhưng họ là những
người rất chăm chỉ làm việc và rất đạo đức. Vì quá bận
rộn nên mẹ em không thể tham dự thánh lễ hằng ngày, nhưng
vừa khi rảnh rang một chút, bà liền đến nhà thờ viếng
Thánh Thể. Một trong những điều Phêrô vẫn còn nhớ mãi
là những lần em theo mẹ đến viếng Thánh Thể, và Phêrô đã
cho rằng chính những cuộc viếng Thánh Thể này đã làm nảy
sinh ơn gọi của mình.
Khi Phêrô được 13 tuổi, một thầy giáo đã nhờ em giúp
ông dạy một nhóm học sinh phá phách mà chính ông không trị
được. Tất cả mọi người, nhất là thầy giáo, đã ngỡ
ngàng vì không ngờ em có thể trị được nhóm học sinh này.
Từ ngày đó Phêrô đã tìm ra hướng đi của cuộc đời mình,
đó là ngành giáo dục.
Một ngày nọ, trong khi cùng với mẹ đi qua đường phố,
Phêrô nhìn thấy hai người trang phục trông rất khác người.
Mỗi người đeo một cỗ tràng hạt, còn đầu thì đội mũ
ba cạnh. Vào thời đó, nước Pháp mới trải qua một giai đoạn
đẫm máu do phong trào chống tôn giáo gây nên. Nhiều dòng tu
vẫn chưa dám mặc tu phục. Vì có lẽ chưa bao giờ thấy một
bộ tu phục nào, nên Phêrô đã hỏi mẹ hai người kia là ai.
"Đó là các sư huynh, những người dạy học vì lòng mến
Thiên Chúa".
Từ ngày đó, Phêrô bắt đầu có ý định cũng muốn làm
một sư huynh dạy học. Mẹ cậu thì sẵn sàng để cho con thử
ơn gọi này, nhưng ba cậu muốn cậu làm một thầy giáo
ngoài đời để cậu có thể tiếp tục ở gần gia đình. Hơn
nữa, ông cho rằng Phêrô chưa đủ khôn lớn để làm quyết
định quan trọng này. Sau cùng, hai ông bà đã quyết định
cho Phêrô theo học tại trường các sư huynh tại Riom. Tại đây,
ước vọng muốn làm sư huynh của Phêrô càng ngày càng mạnh
mẽ hơn.
Phêrô đã được mặc áo Dòng Sư Huynh Các Trường Thiện
Giáo (F.S.C.) vào năm 1820, và được đổi tên là Thầy Benildus. Đến
lúc này, ba của Thầy vẫn không bằng lòng cho Thầy làm sư
huynh. Ông đã đến thăm và nói với Thầy: "Phêrô, ba muốn
con về với ba". Thầy thật không ngờ ba mình vẫn còn phản
đối ơn gọi của mình. Thầy đã thưa với ba: "Nếu ở
đây con phải sống bằng vỏ khoai tây thì con cũng ở lại,
con sẽ không bỏ nhà này". Dù vậy, Thầy cũng đẫm lệ
khi thấy ba buồn sầu ra về. Sau đó, Thầy liền vào nhà thờ
để dâng lên Chúa Giêsu Thánh Thể nỗi buồn ấy.
Một năm sau, Thầy Benildus bắt tay vào nghề giáo dục. Đến
năm 1839, Thầy được chỉ định điều khiển một trường của
dòng. Và sau đó hai năm, Thầy được chỉ định làm hiệu trưởng
một trường mới tại Saugues.
Trong vai trò là một giáo sư và một hiệu trưởng, Thầy rất
chú trọng đến tinh thần kỷ luật, đến nỗi nhiều học
sinh phải sợ Thầy. Tuy Thầy có dùng roi để sửa phạt,
nhưng cũng rất nhẹ khi so với các giáo viên tại Pháp thời
đó. Thầy sửa phạt công bằng, không thiên vị ai, không kỳ
thị giầu nghèo. Dưới sự điều khiển của Thầy, học sinh
mỗi ngày mỗi mến trường học hơn, vấn đề trốn học hầu
như không còn xảy ra.
Dù vậy, đối với Thầy, cầm hãm được tính nóng của
mình và luôn tỏ ra là một giáo viên công bằng không phải
là luôn luôn dễ dàng. Có lần Thầy đã phải công nhận là
nếu không có sự trợ giúp của Đức Trinh Nữ Maria, có lẽ
Thầy đã đập chết mấy đứa học sinh mất dạy: "Tôi
nghĩ là cho dù thiên thần từ trời xuống để dạy những đứa
trẻ đó, chắc các vị cũng khó lòng mà cầm hãm được sự
nóng giận".
Khi Thầy mới đến Saugues để mở trường học, nhiều phụ
huynh đã tỏ ra bất mãn và thất vọng vì nghĩ rằng với thân
hình mảnh khảnh nhỏ bé như vậy, làm sao Thầy có thể trị
được con cái họ, những đứa thích trốn học hơn là đến
trường.
Trong những ngày đầu, lớp học đã trở thành một chiến
trường: bên này là một nhóm học sinh nhà quê to con, bên kia
là một sư huynh thân hình nhỏ thó nhưng với một ý chí cương
quyết, nhất định thi hành sứ mạng yêu thương và giáo dục.
Một ngày nọ, trong khi Thầy Benildus đang viết trên bảng, một
em học sinh mười tuổi đã cầm giầy ném Thầy. Thay vì cho
em một trận nên thân, Thầy đã cầm hãm được tính nóng giận
của mình. Thầy điềm đạm xin em ở lại sau lớp học và mời
cha mẹ em đến để cùng ra hình phạt đích đáng cho em. Trong
mọi lúc, Thầy luôn cố gắng tuân theo lời chỉ dạy của Vị
Giáo Sư thánh thiện và cũng là Vị Sáng Lập Dòng, Thánh
Gioan Baptist de la Salle. Thánh nhân đã khuyên anh em của Ngài,
là giáo viên, họ phải đóng vai cha mẹ của các em, có tính
tình hiền dịu của người mẹ và tính cương trực của người
cha.
Một giáo viên chỉ biết sửa phạt học sinh sẽ không bao
giờ được hưởng lòng yêu mến và kính trọng của chúng,
dù rằng tại Pháp thời đó có nhiều nhà giáo thật ngặt
nghèo và nghiêm khắc với học sinh. Thầy Benildus đã dùng nhiều
cách để khuyến khích học sinh như chia các học sinh thành
nhiều đội để thi đua với nhau, dùng những lời lẽ ân cần
yêu thương và khen thưởng. Thầy nhận ra những nhu cầu của
từng cá nhân, và đối xử với học sinh một cách kính trọng,
không cần biết họ giầu hay nghèo. Để khích lệ chúng, mỗi
năm thường có những dịp tặng quà khen thưởng. Phương pháp
giáo dục mà Thầy Benildus áp dụng cho học sinh của Thầy
vào giữa thế kỷ mười chín cũng chính là phương pháp mà
nhiều nhà tâm lý và giáo dục ngày nay cho là rất hữu hiệu
trong việc giáo dục. Phương pháp khen thưởng và chú ý đến
từng học sinh đó, không lâu sau đã khiến cho những trẻ học
sinh nhà quê khó dạy kia trở nên chăm chỉ học hành.
Dần dần phụ huynh của các em đã nhận ra sự thành công
của Thầy và tỏ ra kính trọng Thầy hơn. Không những thế,
một số đã xin Thầy mở lớp ban đêm để dạy họ biết đọc
biết viết. Thầy đã mở lớp và đích thân dạy học cho họ.
Tuy là người giữ kỷ luật rất nghiêm, Thầy cũng là một
người rất vui tính. Một lần Thầy dạy cho học sinh cách
làm sáo tre và một số nhạc khí đơn sơ khác. Nhưng thật không
may, vì phụ huynh của các em tỏ ra không vui tí nào khi các em
làm ồn ào cả nhà cửa. Thế là Thầy Benildus đã phải xin
mua lại tất cả các nhạc khí đó.
Không những Thầy dành tình thương và sự săn sóc cho các
học sinh bình thường, mà cả những học sinh yếu kém cũng
được Thầy đặc biệt săn sóc. Một ngày nọ một anh chàng
18 tuổi không biết chữ và hầu như điếc đã đến xin Thầy
dậy học để có đủ khả năng Rước lễ lần đầu. Thầy
đã không ngần ngại học ngôn ngữ của người điếc để có
thể dạy cho anh. Một lần khác, một thanh niên đã bị Thầy
bắt quả tang ăn cắp trong nhà của Thầy. Thầy không cho người
ta gọi cảnh sát; Thầy muốn chính mình khuyên bảo hắn. Khi
được biết anh có gia đình để chăm sóc, Thầy liền giúp
đỡ anh để anh có đủ sức lo cho gia đình.
Trong cuộc sống thường nhật, Thầy Benildus cố gắng tuân
giữ lề luật từng chữ từng nét, và Thầy đã làm gương
cho anh em. Khi được đặt làm bề trên của tu viện, Thầy
có trách nhiệm phải ra hình phạt khi có ai lỗi luật. Hình
phạt Thầy hay ra nhất là viếng Đàng Thánh giá. Rất nhiều
lần, Thầy cũng đến để cùng viếng Đàng Thánh giá với phạm
nhân.
Tuy là một nhà giáo tài ba và là một tu sĩ gương mẫu,
nhưng Thầy không làm được điều gì có thể nói là nổi bật
hay khác thường. Thầy không làm một phép lạ nào, không được
một ơn đặc biệt hay được hưởng một thị kiến nào. Qua
các thời đại, các thánh được tôn phong không phải vì những
việc vĩ đại các ngài đã làm, nhưng vì cuộc sống toàn diện
của các ngài. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã gọi Thầy Benildus
là "Vị Thánh của những Công việc Hằng ngày", và
cho chúng ta biết là sự thánh thiện của Thầy không gì khác
hơn là làm những việc bình thường một cách khác thường vì
lòng yêu mến Thiên Chúa.
Thầy Benildus được Chúa gọi về cách lặng lẽ tại
Saugues vào ngày 13 tháng 8 năm 1862. Lời cuối cùng của Thầy
phản ảnh một tâm hồn vui tươi mà Thầy đã giãi sáng trong
suốt cuộc đời: "Thật hạnh phúc cho những ai được chết
trong tình trạng thánh thiện".
Chỉ sau khi chết, sự thánh thiện của Thầy mới được
đưa ra ánh sáng. Cây Thánh giá bằng đồng rẻ tiền của Thầy
Benildus đã được các thầy dòng tặng cho bác thợ mộc đã
đóng hòm cho Thầy. Vợ bác thợ mộc đã cho những người cần
ơn trợ lực của Trời mượn cây Thánh giá đó. Một người
đang hấp hối mà vẫn không chịu lãnh nhận các bí tích, nhưng
sau khi đụng vào cây Thánh giá đó, ông liền xin mời linh mục
đến. Nhiều phép lạ khác đã xảy ra nhờ cây Thánh giá đó.
Hai phép lạ được Giáo Hội công nhận trong cuộc điều tra
phong thánh cho Thầy Benildus đã xảy ra nơi những người mang
bệnh ung thư bất trị.
Đức Giáo Hoàng Pius XII tôn phong Chân Phước cho thầy Benildus ngày 04 tháng 4 năm 1948.
Trong nghi lễ phong chân phước có lời nguyện xin Chúa ban
cho mọi tín hữu được biết noi gương Thầy Benildus trong việc
chu toàn các việc nhỏ mọn trong cuộc sống, để có thể
lãnh nhận những phần thưởng lớn lao và vô cùng trên Thiên
Quốc.
Đức Giáo Hoàng Paul VI đã nâng Chân Phước Benildus Romancon lên hàng hiển thánh ngày 29 tháng 10 năm 1967.