Ngày 12 tháng 11

St. Josaphat of Kuncevicz
(1580-1623)

St Josaphat of KunceviczThánh Josaphat, vị giám mục theo lễ điển Ðông Phương, được coi là vị tử đạo cho sự hợp nhất giáo hội vì ngài cố gắng đưa Chính Thống Giáo về hợp nhất với Rôma.

Vào năm 1054, một sự chia cắt chính thức được gọi là đại ly giáo đã xảy ra giữa Giáo Hội Ðông Phương ở Constantinople và Giáo Hội Tây Phương ở Rôma vì những bất đồng về thần học và đời sống độc thân của giáo sĩ. Cho đến năm thế kỷ sau, một vị giáo chủ Chính Thống Giáo ở Kiev và năm giám mục Chính Thống Giáo quyết định đưa hàng triệu người Chính Thống Giáo dưới quyền về hợp nhất với Rôma. 

Khi Thượng Hội Ðồng ở Brest Litovsk khai mạc vào năm 1595 thì Thánh Josaphat Kunsevich lúc ấy chỉ là một cậu bé trai, nhưng đã được chứng kiến các kết quả tích cực cũng như tiêu cực của thượng hội đồng. Hàng triệu Kitô Hữu đã không đồng ý với các giám mục về sự hiệp thông với Công Giáo, và cả đôi bên đều tìm cách giải quyết sự bất đồng, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng vũ lực. Do đó cả hai phía đều có nhiều người đã tử vì đạo. Giữa những xáo trộn ấy, Thánh Josaphat là một tiếng nói hòa bình.

Josaphat Kunsevyc tên rửa tội  là  John  sinh năm 1580 tại Volodymyr, Lithuania, Ukraine. Khi còn niên thiếu, nhờ sự khuyến khích của hai vị linh mục dòng Tên nên ngài đã gia nhập tu viện Holy Trinity ở Vilna năm 1604. Trong thời gian này, ngài quen thân với Joseph Benjamin Rutsky, là người trở lại Kitô Giáo sau một thời gian theo phái Calvin. Cả hai đều muốn sự hợp nhất trong giáo hội và cải tổ đời sống tu trì.

Sau đó, Josaphat được gửi đi trông coi một cơ sở ở Rôma, còn Rutsky được làm tu viện trưởng ở Vilna. Khi Rutsky được làm giáo chủ của Kiev, thì Josaphat lại được thế chỗ Rutsky làm tu viện trưởng. Nhân cơ hội này, Josaphat thi hành kế hoạch cải tổ, nhưng đường hướng cải tổ phản ảnh một đời sống nghiêm nhặt và khắc khổ của ngài, nên không mấy ai hưởng ứng. Ngay cả một tu hội còn dọa ném ngài xuống sông!

Khi là vị giám mục đầu tiên ở Vitebsk và sau đó ở Polotsk vào năm 1617, Ðức GM Josaphat phải đối diện với nhiều khó khăn. Có thể nói giáo hội lúc ấy thật thối nát, giáo sĩ tái hôn đến hai ba lần, và họ không lo lắng gì đến việc mục vụ hoặc đời sống gương mẫu. Trong vòng ba năm, Ðức GM Josaphat phải chấn chỉnh lại giáo hội qua các thượng hội đồng, phân phát sách giáo lý khắp nơi, và áp đặt những quy luật cho hàng giáo sĩ. Nhưng đáng kể hơn cả là chính đời sống của ngài mà hầu như lúc nào cũng đi rao giảng, giáo dục đức tin, thăm viếng những kẻ đau ốm.

Bất kể công việc và tiếng tăm của Ðức GM Josaphat, những người Chính Thống Giáo ly khai đã bầu một tổng giám mục của họ ngay ở cùng một thành phố. Thật đau lòng cho Josaphat khi thấy những người ngài phục vụ bị phân ly trong những cuộc bạo loạn. Ngay cả giáo phận cũ của ngài ở Vitebsk cũng chống đối sự hợp nhất và chống chính ngài. Ðau khổ hơn cả, là chính người Công Giáo mà ngài tìm cách hợp nhất cũng chống đối ngài, chỉ vì họ không thích ngài chủ trương lễ điển Byzantine thay vì lễ điển Rôma. Vì sợ hãi hay vì ngu dốt, vị chưởng ấn của Lithuania, tin lời đồn đãi rằng ngài đã xúi giục dân chúng nổi loạn, nên thay vì giúp đỡ thì lại lên án Ðức GM Josaphat. Thực sự ngài chỉ dùng đến quyền lực khi các người ly khai chiếm nhà thờ Mogilev và ngài xin nhà cầm quyền giúp phục hồi lại quyền bính.

Vào tháng Mười 1623, Ðức GM Josaphat quyết định trở về Vitebsk để đích thân lắng dịu vấn đề. Ngài biết rất nguy hiểm nhưng cho biết, "Nếu tôi xứng đáng được phúc tử đạo, thì tôi không sợ chết." Những người ly khai coi đây là cơ hội để trừ khử Josaphat và làm ngài mất uy tín nếu họ xúi giục được phe của ngài nổi loạn trước và coi đó là cái cớ để chống lại. Sự đe dọa tính mạng của ngài quá lộ liễu đến nỗi ngài phải lên tiếng, "Quý vị muốn giết tôi sao. Quý vị phục kích tôi trên đường phố, trên cầu cống, trong chợ búa, ở khắp mọi nơi. Chính tôi đây. Tôi đến với quý vị như một mục tử. Quý vị biết là tôi rất vui mừng để hy sinh cho quý vị. Tôi sẵn sàng chết cho sự hợp nhất của Giáo Hội dưới quyền Thánh Phêrô và các giáo hoàng kế vị."

Khi người ly khai thấy kế hoạch thất bại, họ lập mưu bằng cách đưa một linh mục tên Elias đến nơi tụ họp của phe đức giám mục để lên tiếng sỉ vả bất cứ ai đi ngang qua, nhất là vu khống Ðức GM Josaphat và Giáo Hội Công Giáo, cốt để chọc tức. Biết được thâm ý của họ, Ðức GM Josaphat giữ im lặng và cầu nguyện nguyên ngày. Qua ngày hôm sau, Elias lại đến nữa và các người phục dịch của đức giám mục đã bắt nhốt Elias trong một căn phòng khi ngài đi vắng. Trở về nhà, thấy vậy ngài đã mở cửa phòng cho Elias trốn đi. Nhưng đã quá trễ. Ðám ly khai chỉ chờ có thế để báo động cả thành phố đến bao vây với gậy gộc trên tay.

Khi bước ra sau vườn, ngài thấy đám du côn đánh đập các người phục dịch và các linh mục khác, ngài lớn tiếng kêu: "Này các con, các con làm gì những người đó vậy? Nếu các con muốn chống đối cha, thì có cha đây, đừng đụng đến những người ấy!" Với tiếng hô to, "Hãy giết tên theo giáo hoàng," bọn họ đánh đập Ðức GM Josaphat với gậy gộc, sau đó họ dùng rìu và cuối cùng bắn vào đầu ngài. Thi thể đầy máu của ngài bị bọn họ kéo lê ra sông và quăng xuống đó cùng với xác con chó của ngài. Đó là ngày 12 tháng 1 năm 1623 tại Vitebsk, Belarus; thi hài của ngài bị quăng xuống sông Dvina, được người ta vớt lên và chôn tại Biala, Poland 

Những anh hùng vô danh trong thảm kịch này là các người Do Thái ở Vitebsk. Họ đã liều mạng xông vào toà giám mục để can gián và cứu những người trong toà giám mục khỏi bị sát hại. Nhờ sự can đảm của họ, nhiều người đã được cứu sống. Cũng chính những người Do Thái này đã công khai lên án các tên sát nhân và thương tiếc Ðức GM Josaphat, trong khi người Công Giáo ở thành phố lại trốn chui trốn nhủi vì sợ hãi.

Thông thường, sự bạo động luôn luôn có hậu quả trái ngược. Vì hối hận và kinh hoàng về cuộc bạo động khiến họ mất đi một vị giám mục thánh thiện nên công chúng lại hướng về sự hợp nhất với Rôma. Và sau cùng, đức tổng giám mục mà phe ly khai dựng lên là Meletius Smotritsky cũng đã hoà giải với Rôma.

Vì có nhiều phép lạ xảy ra nhờ lời cầu bầu của ngài, với sự chấp thuận và ủng hộ của chính quyền và giáo quyền Ukrain và Ba Lan, vua Sigmund đã xin Tòa Thánh xúc tiến việc phong thánh cho ngài. Tiến trình theo Giáo Luật bắt đầu bằng việc cải mộ và xác minh hài cốt. Người ta phát hiện thi hài của ngài vẫn còn nguyên vẹn, mềm mại mặc dầu trang phục trong ngoài đều bị ẩm ướt , mục nát. Để thỏa mãn ước nguyện của hàng ngàn người tuôn đến nhà thờ sau khi hay tin về sự kiện lạ lùng ấy, thi hài thánh nhân sau khi được mặc lễ phục mới được đặt ngồi lên ngai tòa Giám Mục cho mọi người được nhìn thấy. Đức GM Giáo phận Milton là George Tishkevich rất xúc động đã nâng cánh tay phải của thi hài và ban phép lành cho toàn thể đám đông.

Năm 1637, thi hài được giám định một lần nữa, người ta thấy trang phục bị mối mọt hư rữa, tóc râu cũng rụng hết nhưng nước da vẫn còn mềm mại, vết lằn rất lớn trên trán và những vết thương trên mặt vẫn còn rất rỏ ràng. Các vết thương được xác định không do bị hành hình nhưng do những người đi tìm thánh tích lấy mất mấy ngón tay và một ngón của bàn chân trái.

Trải qua các thời kỳ lịch sử của Ba Lan, với những cuộc xâm lược và chiến tranh, thi hài thánh nhân trong chiếc hòm quí đã được chuyển dời nhiều lần để tránh bị phá hoại. Trong thời kỳ nhiễu nhương ấy, thi hài thánh nhân đã được chính thức xác nhận vào năm 1674 và năm 1767 lại được trưng bày ở nhà thờ tại Bila. Sau khi dời chuyển đến Vienne để được gìn giữ an toàn. Xác thánh đã được chuyển đến VCTĐ Thánh Phêrô tại Rome và được trưng bày một vài năm. Xác thánh hiện nay vẫn còn trong tình trạng tốt, mặc dầu gương mặt đã lộ rõ xương, tuy nhiên vẫn giữ được tình trạng tươi tốt cách lạ lùng

Ngài được Đức Giáo Hoàng Urban VIII tôn phong Chân Phước ngày 16 tháng 5 năm 1643 và Đức Chân Phước Giáo Hoàng Pius IX tuyên phong hiển thánh cho vị Tông đồ của Hiệp Nhất vào năm 1876, đây là vị thánh đầu tiên của Giáo Hội Ðông Phương được Rôma tuyên phong hiển thánh.

(Trích Gương Thánh Nhân - ns Người Tín Hữu online & Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saints, Santi-Beati-Testimoni và "The Incorruptibles" của Joan Carroll Cruz / Matthias Ngọc Đính, CMC chuyển ngữ)