Vào một ngày xuân đẹp trời năm 1851, Cha Micae Martinez và
vài người bạn cùng đi bách bộ trên đường phố. Trong câu
chuyện, một người đã chia sẻ cảm tưởng của mình khi thấy
các Sơ thuộc Tu hội Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinhsơn Phaolô, hiện
đang coi sóc bệnh viện của thành phố, đã không thể phá lệ
một lần để chấp nhận cho một nữ tu y tá đến nhà ông
thống đốc để săn sóc cho con gái của ông. Không ai có thể
ngờ được, câu nói đó đã trở thành hạt giống nẩy sinh
một tu hội mới: Dòng Nữ Tôi Tớ Đức Mẹ.
Cha Micae, lúc đó đang làm Cha xứ của một họ đạo ở
ngoại ô thành phố Madrid, Tây Ban Nha, từ lâu đã nhận thấy
một số bệnh nhân nghèo không được ai chăm sóc, vì không
có tiền để vào bệnh viện. Ngài liền nẩy ra một ý tưởng
là sẽ thành lập một tu hội với mục đích đến nhà các bệnh
nhân để săn sóc cho họ. Nếu bệnh nhân không có tiền, thì
Chúa sẽ liệu.
Ngay sau đó, Cha Micae đã lo liệu để xin những phép cần
thiết, và bắt đầu tuyển mộ một số thiếu nữ để thực
hiện mục đích của tu hội. Thêm vào đó, vì ngài có lòng
sùng kính đặc biệt đối với Đức Mẹ Bảy Niềm Đau, ngài
muốn bắt đầu bằng bảy người "tôi tớ" của Đức
Mẹ. Người thứ bảy được Cha tuyển mộ là chị Vibiana
Torres. Nhưng vì thân hình chị quá mảnh khảnh yếu đuối, nên
lúc đầu Cha đã ngần ngại không muốn nhận.
Vibiana sinh ngày 02 tháng 12 năm 1826, là người con thứ hai
trong 5 người con của một người sản xuất sữa. Gia đình
Vibiana sống trong một khu phố nghèo, tuy gia đình không đến
nỗi nghèo lắm. Ngày từ tuổi ấu thơ, Vibiana đã cảm thông
nỗi thống khổ của những người nghèo bệnh hoạn, không
được chữa trị trong các bệnh viện vì không có tiền.
Dù là một cô bé tinh nghịch, nhưng Vibiana đã sớm được
bà hiền mẫu dạy cho có một lòng yêu mến đặc biệt đối
với Thiên Chúa và Đức Mẹ. Với lòng yêu mến đó, Vibiana rất
thích tụ tập các trẻ em trong xóm làng và tổ chức những
cuộc rước tôn kính Đức Mẹ. Sau này, những khi có thể,
Vibiana thường đến thăm những người yếu bệnh trong làng
xóm, và thực hiện nhiều việc hãm mình nhỏ bé để cầu
cho các linh hồn. Trước mắt mọi người, Vibiana chỉ là một
thiếu nữ tầm thường, rất ít người đoán được chiều sâu
của đời sống thiêng liêng của cô. Tuy nhiên, nhiều người
cũng đã đoán sau này Vibiana sẽ trở thành một nữ tu.
Theo tính tự nhiên, Vibiana dễ thân thiện và rất thích hoạt
động, nhưng tận thâm tâm cô vẫn âm thầm ước mong được
sống đời chiêm niệm. Dù vậy, Vibiana đã làm cho các bạn
phải bỡ ngỡ khi cô xin nhập Dòng Đaminh. Vibiana được nhận
vào tu, nhưng vì chỗ trong tu viện có hạn, nên phải chờ cho
đến khi có chỗ. Mấy tháng trời qua đi trong chờ đợi
nhưng vẫn chưa được trả lời, Vibiana bắt đầu cầu nguyện
để xin Chúa cho biết Thánh Ý Người: nếu Chúa để sự chậm
trễ là có ý thử đức kiên nhẫn, thì cô sẵn sàng đón nhận;
nhưng nếu Chúa có ý định khác về cô, thì xin Chúa tỏ cho
biết.
Không lâu sau, Vibiana được nghe biết về chương trình của
Cha Micae. Lúc này vì nhận thấy hy vọng được vào Dòng
Đaminh thật mong manh, nên cô đã nghĩ phải chăng tu hội mới
này chính là lý tưởng Thiên Chúa muốn cho mình ôm ấp theo
đuổi. Cho dù Vibiana vẫn ước mong được sống đời chiêm
niệm, cô cho rằng mình có thể biến phòng bệnh lúc về đêm,
trong khi mọi người đang ngủ, thành một hàng rào nội vi cho
mình. Thêm vào đó, cô sẽ có cơ hội để tích cực phục vụ
Chúa trong các chi thể yếu đau của Người.
Vibiana đã xin gặp Cha Micae, và Cha đã sớm nhận ra tâm hồn
chân thành cũng như lòng đạo hạnh của cô, nhưng đồng thời
ngài cũng thấy áy náy vì vóc dáng mảnh khảnh yếu đuối của
cô; không biết rồi đây cô có kham nổi những khó khăn khổ
cực trong khi làm việc tông đồ giúp đỡ các bệnh nhân hay
không. Nhưng cuối cùng ngài cũng nhận Vibiana. Cả Cha Micae và
Vibiana đã không thể ngờ được rằng, trong số những người
tiên khởi, chỉ có Vibiana đứng vững sau những khó khăn khổ
cực trong thời gian đầu của tu hội.
Thế là ngày Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 15 tháng 8 năm
1851, Vibiana, lúc ấy 25 tuổi, cùng với 6 người khác đã long
trọng tuyên khấn ba lời khuyên Phúc Âm Khiết tịnh, Khó
nghèo, và Tuân phục, nhận áo Dòng, và được đổi tên mới.
Vibiana được đổi tên là Sơ Maria Soledad.
Với tất cả lòng hăng hái, Sơ Soledad bắt đầu phụng sự
Thiên Chúa qua những chi thể yếu đau của Chúa. Chị Nữ tu
này đã đến từng nhà bệnh nhân để săn sóc họ, dù người
đó ở trong biệt thự sang trọng hay túp lều nghèo nàn. Lúc
nào cũng thế, Sơ luôn cố gắng đem tình thương của Chúa
và khả năng y tá của mình để săn sóc các bệnh nhân. Vì
là con người, nên trong những ngày đầu, Sơ đã phải kinh
hãi trước những triệu chứng của một số tật bệnh. Thêm
vào đó, nhiều lần Sơ đã phải run sợ khi đứng trước một
xác chết. Nhưng sau này, nhiều lần chính Sơ đã nói chuyện
với các tập sinh khi họ phải đối diện với nỗi lo sợ này;
Sơ an ủi họ bằng cách cho họ biết điều sợ hãi đó là tự
nhiên đối với mọi người. Nhờ sự tự chủ can trường,
Sơ đã thắng vượt những mối lo sợ và kinh hãi đó.
Không bao lâu sau, tu hội mới bắt đầu gặp rất nhiều khó
khăn. Bà Bề trên tiên khởi bỏ Dòng; không những thế, bà
còn muốn phá đổ mọi công việc của Dòng. Đồng thời nhà
Dòng lại rất nghèo. Nhiều ngày, bữa tối các Sơ chỉ có
canh tỏi và bánh mì. Đến năm 1856, một cuộc cách mạng đã
bùng lên ở Tây Ban Nha, và ông thống đốc thành Madrid đã ra
lệnh cho các Sơ phải mặc thường phục. Với lệnh đó ông
có ý muốn giải tán Dòng. Nhưng không lâu sau, chính ông đã
mắc bệnh dịch tả. Trong dịp đó, ông đã xin một nữ tu của
hội Dòng đến săn sóc cho mình. Sau khi chứng kiến tấm lòng
bác ái quên mình của các Sơ, ông đã rút lại lệnh bắt
các Sơ mặc thường phục.
Cũng trong năm 1856, vì Cha Micae tin rằng ngài được soi sáng
để đi truyền giáo, nên ngài đã quyết định ra đi. Sơ
Soledad đã xin Cha để được vào số những Sơ được theo phụ
giúp Cha. Nhưng ngài đã từ chối và nói, "Soledad, Sơ hãy
ở lại, vì nếu Sơ đi, Dòng sẽ bị tan rã". Và ngài đã
đặt Sơ vào chức vụ Bề trên Tổng quyền của Dòng.
Mẹ Soledad đã vượt qua được nhiều gian nan thử thách nhờ
sự kiên trì trong đức ái, đức khiêm nhu và sự lãnh đạo
khôn ngoan khéo léo. Đời sống trong Dòng lúc đó rất nghèo
khó, nhưng Mẹ vẫn thường nói với các Sơ: "Đừng băn
khoăn về căn nhà dưới đất này, trong khi chúng ta có một
ngôi nhà tốt đẹp trên Thiên đàng. Chúng ta nghèo, nhưng hãy
để đức ái thúc bách chúng ta. Chúng ta phải chia sẻ những
của Thiên Chúa ban với những người nghèo khổ của Người".
Mẹ Soledad đã dùng nhiều giờ trong ngày để xin Chúa ban
thêm nhiều ơn gọi mới cho Dòng. Mẹ đã nguyện xin với
Chúa, "Xin Chúa ban cho con thêm nhiều người tôi tớ hăng
hái, để họ trở nên những vị tông đồ chăm sóc những người
yếu đau". Đối với chị em, Mẹ thường khích lệ họ về
ý nghĩa của các việc tông đồ mà họ đang thực hiện:
"Các con hãy làm việc với nguyện vọng làm vinh danh
Thiên Chúa và đem ơn cứu rỗi đến cho các linh hồn".
Lúc này, danh hiệu của Mẹ Soledad là "Mẹ Giám đốc",
nhưng có lẽ nếu gọi là người tôi tớ thì đúng hơn. Mẹ
đã làm mọi công tác như các chị em trong Dòng, không tìm một
địa vị cao trọng trong bất cứ công việc gì. Hằng tuần,
các Sơ ra bờ sông để giặt quần áo. Sau này, các Sơ đã
thuyết phục được Mẹ Soledad đừng đi giặt với các Sơ nữa,
vì việc này không thích hợp với một người lãnh đạo của
Dòng. Để thay thế, Mẹ đã âm thầm ở nhà, lượm củi và
nấu bữa chiều cho chị em.
Tu hội mới này đã trải qua quá nhiều khó khăn, đến nỗi
vị linh hướng đã ngần ngại không muốn giúp các Chị viết
bản luật dòng, vì sợ rằng không bao lâu tu hội sẽ tan. Sau
khi cầu nguyện để biết Thánh Ý Chúa, trong một thị kiến,
Cha đã bị khiển trách vì sự do dự vô căn cứ. Thế là Mẹ
Soledad đã được diễm phúc để sống tới ngày thấy Dòng
được Giáo hội chính thức châu phê hiến pháp vào năm 1876.
Ngay từ đầu, Mẹ Soledad đã đặt hội dòng dưới sự che
chở của Đức Mẹ là sức khoẻ các bệnh nhân. Con cái
thiêng liêng của Mẹ ngày nay vẫn còn tuân giữ truyền thống
tốt đẹp đó.
Hội dòng đã phát triển và đứng vững suốt thời kỳ bệnh
dịch hoành hành và trong cuộc cách mạng. Mới đầu, các tu
viện đã từ từ được thành lập ở Tây Ban Nha. Đến năm
1875, nhóm nữ tu đầu tiên đã vượt biển sang hoạt động tông
đồ ở Cuba. Hiện nay, Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ đang phục vụ
các bệnh nhân tại 21 quốc gia trên thế giới.
Mẹ Soledad đã mắc bệnh phổi năm 1887, và sau đó đã âm
thầm qua đời ngày 11 tháng 10 tại Nhà Mẹ sau khi lãnh nhận Bí tích sau hết.
Lúc đầu Mẹ được an táng ở nghĩa trang trong phần đất của
nhà Dòng. Nhưng ngày 18 tháng 1 năm 1893, xác Mẹ đã được cải
táng và đưa về Nhà Mẹ. Các Sơ đã sung sướng khi nhận ra
di thể Mẹ vẫn còn nguyên vẹn. Không những thế còn chảy
ra máu tươi, và mọi người hiện diện đều được thấy một
hương thơm dịu dàng. Nhưng vài năm sau, xác Mẹ chỉ còn lại
có xương.
Mẹ Maria Soledad đã được Đức Thánh Cha Piô XII phong Chân
Phước năm 1950, và được Đức Thánh Cha Phaolô VI phong Hiển
Thánh năm 1970.