Ngày 09 tháng 2
St. Miguel Febres Cordero
(1854-1910)
Phanxicô, hay "Pancho", con trai nhỏ của ông Cordero,
là một đứa trẻ lanh lợi. Vào một buổi chiều nọ, em
đang ngồi ở nhà với bà cô của em. Vì em bị tật cả hai
chân, nên dù đã 5 tuổi mà vẫn chưa biết đi. Nhìn qua cửa
sổ hướng về những bụi hồng trong vườn, mắt em đột nhiên
mở to. Em kêu lên: "Cô coi kìa, có một bà rất đẹp ở
gần bụi hồng!"
Đáp lại, cô bảo bé: "Mời bà vào nhà chơi đi,
Pancho!"
"Bà mặc một chiếc áo choàng trắng, bà thật là đẹp!
Cô có thấy bà không? Bà đang gọi con và bà muốn con đến với
bà".
Trước cặp mắt kinh ngạc của bà cô, Pancho đứng dậy và
đi đến cửa sổ. Đó là lần đầu tiên Pancho bước đi một
mình mà không cần sự giúp đỡ của ai. Sức khoẻ của em đã
khá lại kể từ ngày sự kiện lạ lùng đó xảy ra, mặc dù
cho đến ngày chết, Pancho vẫn bị tật cả hai chân và đi lại
thật khó khăn.
Phanxicô Febres Cordero Munoz sinh ngày 07 tháng 11 năm 1854 trong
một gia đình khá giả và có danh vọng tại miền Cuenca, nước
Ecuador. Bé có một trí thông minh lạ lùng. Trong mấy năm đầu,
bé đã được người mẹ rất đạo đức dạy dỗ tại nhà.
Nhiều sự kiện dị thường xảy ra trong thời thơ ấu của bé
đã khiến cho người ta phải công nhận bé được Thiên Chúa
đặc biệt sủng ái.
Lúc 8 tuổi, khi đang chơi với chúng bạn, em bị một con
bò rừng xông đến tấn công. Những người đứng gần đó tưởng
em không tài nào thoát chết; nhưng em đã thoát nạn và không
bị thương tích gì.
Các sư huynh La-san hồi đó đã được Tổng thống Ecuador,
ông Garcia Moreno, mời đến Ecuador. Đến năm 1863, Phanxicô ghi
danh vào trường các Thầy. Em bé thông minh 9 tuổi này bắt đầu
quý mến các Thầy và lối sống của các Thầy.
Trường học đã trở thành ngôi nhà thứ hai của Phanxicô,
và em thường ở lại sau khi tan học để giúp làm bất cứ
việc gì em có thể. Sau một thời gian ngắn, Phanxicô đã quyết
định muốn trở thành một tu sĩ, và xem ra không gì có thể
ngăn cản em theo đuổi ý định này. Về phần các Thầy, các
Thầy đã sớm nhận ra Phanxicô là một học sinh thông minh và
có lòng đạo sốt sắng hiếm có.
Khi Phanxicô cho gia đình biết lòng ao ước muốn trở thành
tu sĩ, gia đình em thật bỡ ngỡ. Mẹ em đã có trong đầu một
nghề tốt cho con bà. Ba và bà nội thì bác bỏ ý định của
em. Để tìm cách thay đổi ý định của Phanxicô, gia đình đã
gửi em vào nội trú tại một chủng viện ở Cuenca.
Về sau, Phanxicô đã viết lại cảm tưởng của mình về
thời gian sống tại đó: "Chỉ ở đó có 3 tháng thôi mà
tôi cảm thấy như là 3 năm vậy. Tôi cảm thấy đau khổ triền
miên mặc dù các thầy giáo và các bạn học sinh đều rất tử
tế và vui vẻ. Thật ra đó không phải là nơi Chúa có ý muốn
cho tôi ở và tôi như cá ở ngoài nước. Một trong các cậu
của tôi đã đến thăm và cho tôi tiền để giải trí, nhưng
tôi đã dùng số tiền đó mua nến dâng tại bàn thờ Đức Mẹ
để xin Đức Mẹ giải thoát tôi khỏi nơi luyện ngục ấy và
giúp tôi theo đuổi ơn gọi đích thật của tôi".
Sau cùng, cuộc sống khổ đau đó đã ảnh hưởng đến sức
khoẻ của em: một chứng nhức đầu thật dữ dằn đã làm
cho em thật đau đớn. Em đã xin Cha giám đốc can thiệp. Kết
cuộc gia đình đã đồng ý cho Phanxicô trở lại trường các
Thầy Dòng. Tuy vậy, gia đình em vẫn phản đối ơn gọi của
em. Sau cùng, vì thấy ý chí cương quyết của em, gia đình bất
đắc dĩ đã phải để cho em thử.
Đến năm 1868, Phanxicô dù mới có 14 tuổi đời mà đã
được mặc áo Dòng. Phanxicô là Thầy Dòng đầu tiên người
Ecuador. Để tôn kính Tổng thần Michael, Phanxicô được đổi
tên là Miguel. Vì sức khoẻ của Phanxicô kém, các Thầy cho
phép em trong thời gian tập được ở chung với cộng đồng tại
Cuenca thay vì gởi sang tập viện ở Pháp.
Đến năm 17 tuổi, Thầy Miguel đã viết và xuất bản cuốn
sách giáo khoa đầu tiên. Sau đó, Thầy còn viết nhiều sách
giáo khoa khác. Nhiều sách giáo khoa của Thầy đã được chính
phủ nhận để dùng cho toàn quốc. Hơn nữa, vì các sách của
Thầy rất có giá trị về cả mặt văn phạm lẫn ngữ học,
Thầy Miguel đã được tuyển chọn vào Hàn Lâm Viện Ngữ Học
vào năm 1892. Là một học giả, một văn sĩ, một thi sĩ, Thầy
Miguel quả thật là một người rất thông minh và trổi vượt.
Trong khi là một học giả thông minh tuyệt mức, Thầy
Miguel cũng là một giáo viên đại tài. Thầy luôn luôn cố gắng
tìm cách để làm cho học trò cảm thấy hứng thú trong khi học.
Miguel đã viết điều quyết định này trong cuốn sổ tư của
Thầy: "Tôi phải tìm mọi cách để làm cho những bài học
và bài tập có thể hợp và hứng thú cho các học trò của
tôi". Thầy luôn tỏ ra thông cảm và nhẫn nại, và mặc
dù đặt tiêu chuẩn rất cao, Thầy cũng không bao giờ nổi giận,
ngay cả với học sinh kém nhất.
Một lần nọ, một Thầy trẻ thấy Thầy Miguel, dù sau nhiều
năm kinh nghiệm trong ngành giáo dục, còn miệt mài với một
bài học trong một quyển sách thật cơ bản. Thầy trẻ đó
nói với Thầy Miguel rằng chắc chắn sau 20 năm dạy học, Thầy
không cần phải dọn bài đó nữa.
Thầy Miguel đáp: "Vâng tôi biết, hay ít ra tôi nghĩ rằng
tôi biết. Dẫu vậy, mỗi năm tôi đều tìm cách để giảng
dạy cách hữu hiệu hơn, và tôi thiết nghĩ giả sử tiếp tục
dạy thêm 20 năm nữa, tôi vẫn gắng tìm những cách thức mới
mẻ và hoàn hảo hơn để giảng dạy".
Là một học giả lỗi lạc và là một nhà giáo dục tận
tuỵ với nghề nghiệp, phải chăng đây là những điều căn
bản của việc phong chân phước cho Thầy Miguel? Câu trả lời
chắc chắn là không phải. Căn bản sự thánh thiện của Thầy
Miguel chính là, trong mọi công việc, ngài đều làm cho Thiên
Chúa và để bành trướng vương quốc Chúa Kitô. Một lần
ngài viết: "Một trái tim trở nên quảng đại khi trái
tim đó cảm thấy hạnh phúc, và nó sẽ luôn luôn cảm thấy
hạnh phúc bao lâu tất cả những khát mong của nó được quy
hướng về Chúa. Không gì có thể mang lại hạnh phúc cao cả
cho bằng làm theo Thánh Ý Thiên Chúa vì lòng yêu mến". Thầy
đã viết trong nhật ký rằng: "Con xin hiến dâng trót
mình con cho Chúa Giêsu để Chúa sử dụng con theo Thánh Ý
Chúa. Con muốn mọi chữ con viết, mọi lời con nói, mọi việc
con làm nơi bàn giấy, và tất cả các việc ở trường đều
làm vinh danh Thiên Chúa".
Sau khi qua đời, điều dốc lòng trên đã trở thành thước
đo mọi hành động lúc sinh thời của Thầy Miguel, và Giáo Hội
sau khi đã điều tra về cuộc đời Thầy, đã xác nhận Thầy
thực đã sống mục đích cao cả đó.
Thầy Miguel nhận Đức Mẹ làm Đấng bảo trợ đặc biệt
trong công việc giảng dạy của mình. Thầy soạn nhiều bài
hát, làm nhiều thi phú để tôn kính Đức Mẹ. Lời cầu nguyện
của Thầy luôn luôn là: "Xin Mẹ soi sáng cho con biết những
điều con phải nói với người ta".
Suốt cuộc sống, Thầy Miguel tín trung với những lý tưởng
và mục đích Dòng. Mặc dù phải chịu nhiều đau khổ thể xác
do chứng nhức đầu và bị tật nơi chân, cũng như do những
bịnh hoạn khác, Thầy không hề than thở một lời. Thầy chỉ
thầm lặng dâng hiến những đau khổ của mình để kết hợp
với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Đồng thời, Thầy cũng
từ chối xin chuẩn chước bất cứ việc làm nào do luật
Dòng đòi hỏi. Các sử gia khi viết về cuộc đời Thầy đều
đồng thanh tuyên nhận: ngài thật sự là một người hạnh
phúc và vui vẻ, không bao giờ bi quan, chán nản. Sau này, một
Thầy bạn đã thú nhận rằng bất cứ khi nào cảm thấy
chán nản hay thất vọng, Thầy đều đến gặp Thầy Miguel.
Những lúc đó, Thầy Miguel luôn sẵn sàng bỏ qua một bên bất
cứ việc gì ngài đang làm để lắng nghe Thầy bạn. Và lần
nào Thầy này cũng ra về với tâm hồn vui tươi phấn khởi.
Thầy Miguel nói rằng chính Thầy không bao giờ bị mất hạnh
phúc hay chán nản, vì "Tôi có một người bạn thật lạ
lùng. Tôi làm cho mình trở nên đẹp lòng Thiên Chúa khi tôi
không hài lòng với chính mình".
Năm 1888, Thầy Miguel được cử để đại diện các Thầy
ở Ecuador dự lễ phong chân phước cho Đấng Sáng Lập Dòng,
Thánh Gioan Baotixita La-san. Thầy rất vui sướng vì được tham
dự dịp đặc biệt này, và nói rằng chuyến đi của mình đến
Rôma giống như "được đưa lên miền Cực Lạc".
Trong khi tham dự nghi lễ cảm động đó, Thầy đã có nhiều
ý chỉ để nguyện xin, nhưng về sau Thầy thú rằng vì quá
xúc động, nên chỉ có thể lập đi lập lại câu: "Lạy
Chúa, con cảm tạ ơn Chúa vì tất cả những gì Chúa đã làm
cho con. Chúa biết những điều con ước nguyện. Lạy Chúa,
con cám ơn Chúa".
Năm 1905, Thầy Miguel được mời đi Âu Châu để phiên dịch
một vài cuốn sách từ tiếng Pháp sang tiếng Tây Ban Nha. Dầu
cảm thấy buồn khi xa quê hương, Thầy viết: "Tôi vẫn
điềm tĩnh bởi vì tôi làm theo Thánh Ý Thiên Chúa".
Trong vai trò một dịch giả, Thầy đã làm việc đầu tiên
tại Pháp, rồi đến Bỉ, và sau cùng ở Tây Ban Nha. Tháng
Giêng năm 1910, Thầy bị cảm thương hàn nặng và sau đó biến
chứng sang bệnh sưng phổi. Đến ngày 7 tháng Giêng, Thầy xin
chịu các Bí tích sau hết. Khi những người chung quanh nói rằng
Thầy không thể chết trước khi hoàn thành sự nghiệp, ngài
đã mỉm cười đáp lại: "Nếu công việc tôi đang làm hữu
dụng cho Thiên Chúa, Ngài sẽ gởi đến những người khác để
hoàn thành và nó sẽ được hoàn thành tốt hơn tôi có thể
làm". Được hỏi là Thầy có cảm thấy buồn khi phải
ly trần nơi xứ lạ quê người không, Thầy trả lời:
"Không, tôi vui mừng được chết ở Tây Ban Nha vì đó
là ý Chúa muốn". Ngài qua đời một cách trầm lặng và
an bình vào ngày 9 tháng 2, năm 1910, và được an táng ngày
hôm sau tại nghĩa trang nơi cư ngụ của các Thầy ở Premia.
Mặc dầu Thầy chết xa quê hương Ecuador, đời sống thánh
thiện của Thầy đã được ghi nhớ, và người ta bắt đầu
xin phong thánh cho Thầy. Các hồ Sơ cần thiết đã được đệ
sang Toà Thánh Rôma năm 1925. Trong lúc đó, quan tài của Thầy
đã được chuyển tới một nơi đặc biệt trong một nhà
nguyện tập viện.
Ngày 21 tháng 7 năm 1936, Cộng sản Tây Ban Nha khởi loạn cướp
phá tài sản tại Premia và đốt nhà nguyện. Hai tháng sau, một
thanh niên đã đến toà lãnh sự của người Ecuador ở
Barcelona để trình bày một sự việc xảy ra bất thường.
Trong dịp tấn công Premia, quan tài của Thầy Miguel đã mở ra
và xác vẫn còn nguyên. Người thanh niên này cảm thấy đó
là bổn phận của mình phải cho toà lãnh sự biết trong niềm
hy vọng rằng hài cốt quý báu đó khỏi bị xúc phạm hay thất
lạc. Qua những cố gắng của vị lãnh sự Ecuador, xác Thầy
Miguel được kiểm nghiệm, và được xin lại để gởi về
quê hương trần gian của Thầy.
Khi đến Ecuador, hài cốt của Thầy được rước về an
nghỉ tại tập viện của Dòng ở vùng ngoại ô Quito. Đang
khi di chuyển qua đám đông, một em đang đi nạng với tay chạm
vào quan tài, em bỏ nạng xuống vệ đường và bước đi với
đám đông trước sự kinh ngạc đầy hân hoan vui sướng của
những người hiện diện. Từ đó cậu bé này không bao giờ
dùng đến nạng nữa, em đã hoàn toàn được chữa lành. Lập
tức, các ơn và các phép lạ bắt đầu được phúc trình.
Ngày 30/10/1977, cùng với một Thầy khác, là Thầy Mucian thuộc
Malonne, Bỉ quốc, Thầy đã được Đức Giáo Hoàng Paul VI tôn
phong Chân phước. Đến ngày
9 tháng 2 năm 1984, Thầy Miguel Cordero đã được Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc Hiển thánh.
Vì lời cầu bầu của Thánh Miguel Cordero, xin Chúa
ban cho chúng con ơn biết chu toàn bổn phận của mỗi người
chúng con, và luôn luôn chu toàn tốt đẹp vì vinh danh Chúa,
trong tình mến Chúa.
(Trích "Chứng Nhân Chúa Kitô" Rev John, CMC biên soạn)
|