Ngày 14 tháng 12

St. Nimatullah Al-Hardini
(1808-1858)

St Nimatullah Al-HardiniVị thánh này được thế giới gọi là Youssef Kassab, sinh vào năm 1808 ở Hardine, miền bắc nước Lebanon. Vào năm 20 tuổi, ngài đã vào chủng viện ở Ðan Viện Thánh Antôn ở Qozhaya, lấy tên Nimatullah, nghĩa là (ân sủng của Thiên Chúa), và được thụ phong linh mục ở Kfifan vào Ngày Giáng Sinh năm 1833.

Vị thánh này đã sống chiều kích chiêm niệm theo ơn gọi của mình trong cuộc sống thường nhật bằng tình yêu thương anh em đan sĩ của mình cũng như văn hóa của mình. Thật vậy, "sự thông thái của ngài không phải là những gì chỉ bo bo ở nơi bản thân ngài, mà là một cởi mở truyền giáo hướng đến những ai cần đến đức bác ái và kiến thức của ngài".

Ðó là lý do ngài đầu tiên đã mở một trường dạy học ở Kifkan rồi sau đó ở Bhersaf để hướng dẫn giới trẻ miễn phí. Ngoài ra, "ngài còn đóng một vai trò nổi bật trong các hoạt động bác ái trong cuộc thảm sát Kitô hữu năm 1845. Ngài ở với mọi gia đình và cô nhi; ngài đã giúp đỡ họ, dạy dỗ họ và nguyện cầu cho họ".

Dưới thời Ðế Quốc Ottoman, tình hình dân sự ở Lebanon gặp khó khăn như tình hình của Giáo Hội Maronite cũng như của dòng ngài. Chính vào thời gian này mà ngài đã lấy khẩu hiệu: "Kẻ thông thái nhất là kẻ cứu lấy linh hồn mình". 

Thánh nhân đã ngày đêm bỏ giờ ra tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể và liên tục cầu Kinh Mân Côi. Ở vào tuổi 43, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm phụ tá tổng quyền dòng của ngài 3 năm. Ngài còn được ủy thác cho nhiệm vụ này hai lần sau đó nữa. Vì lòng khiêm nhượng, ngài từ chối không nhận việc bổ nhiệm làm vị tổng đan viện phụ.

Là một giáo sư thần học của đại chủng viện, ngài đã dạy cho các chủng sinh theo học làm linh mục, trong đó có Charbel Makhlouf, một dự thánh sẽ được Giáo Hội tuyên phong trong tương lai, người chủng sinh thánh đức đã ở bên cạnh ngài trong giờ ngài lâm chung. 

Ngài qua đời năm 50 tuổi ngày 14 tháng 12 năm 1858 ở Ðan Viện Kfifan. Ðơn xin phong chân phước cho ngài được đệ trình Tòa Thánh từ năm 1926, cùng với đơn của đan sĩ Charbel (được phong thánh năm 1977) và Rafqa (một nữ đan sĩ thuộc giáo hội Labanon theo Lễ Nghi Maronite cũng đã được phong thánh năm 2001). Ngài đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 10 tháng 5 năm 1998 và cũng chính vị Giáo Hoàng nầy đã nâng ngài lên hàng hiển thánh ngày 16 tháng 5 năm 2004, Chúa Nhật VI Phục Sinh. 

Theo vị linh mục cáo thỉnh viên thì sứ điệp của vị thánh này là một sứ điệp "yêu thương, an bình và hy vọng. Quốc gia của Thánh Nimatullah là một quốc gia luôn sống một Tuần Thánh liên tục. Nó đã theo đuổi con đường hy vọng để thắng vượt tình trạng thất vọng". Việc phong thánh cho ngài "là một bức thư ngỏ gửi cho nước Lebanon là quốc gia đã từng chịu nhiều khổ đau, cũng như cho nhân dân Lebanon là những người đang cần đến hòa bình, và cho mảnh đất tử đạo Trung Ðông vậy".

(Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL chuyển dịch từ VIS của Tòa Thánh & Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saint và Santi-Beati-Testimoni)