Ngày 29 tháng 5

St. Ursula Ledochowska 
(1865-1939)

StUrsula Ledochowska"Thánh Ursula Ledochowska đã nói với mọi người bằng ngôn ngữ yêu thương được thể hiện qua các việc làm. Thánh nhân đã đi khắp Nước Nga, những xứ sớ Bắc Âu, Pháp và Ý... một vị tông đồ của việc tân truyền bá phúc âm hóa... cho thấy bằng cả đời và hoạt động của mình tầm quan trọng liên lỉ, tính cách sáng tạo và hiệu lực của tình yêu theo Phúc Âm. Tất cả chúng ta có thể học nơi Ngài việc cùng với Chúa Giêsu kiến tạo nên một thế giới nhân bản hơn, một thế giới nhìn nhận hoàn toàn hơn nữa những giá trị như công lý, tự do, tình đoàn kết và hòa bình". (Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, bài giảng phong thánh 18/5/2003)

"Chỉ cần tôi biết làm sao để yêu thương, để nung nấu và để thiêu đốt bản thân mình trong yêu thương". Trước khi khấn dòng, người tập sinh 24 tuổi dòng Ursuline ở Krakow là Maria Orsola (Giulia) Ledochowska đã viết lên những lời này. Vào ngày khấn dòng, Ngài lấy tên dòng là 'Maria Ursula của Chúa Giêsu', danh xưng này đã chi phối cả cuộc đời của thánh nhân. Trong gia tộc của Ngài, cả về đằng nội (một gia đình Balan cổ kính) cũng như ngoại (gốc Thụy Sĩ thuộc triều đại Salis), có nhiều chính trị gia, quân nhân, viên chức Hội Thánh và tu trì là những người có dính dáng tới lịch sử Âu Châu và Giáo Hội. Ngài được dưỡng dục trong một gia đình đông anh chị em nhưng có kỷ cương và thương mến nhau. Ba người con đầu, kể cả thánh nhân, đã sống đời tận hiến, trong đó có Maria Teresa (được phong chân phước năm 1975) thành lập 'Hội của Thánh Phêrô Claver' và người em trai là Vladimiro làm tổng đại diện của các tu sĩ Dòng Tên. 

Thánh Maria Ursula đã sống ở tu viện ở Krakow 21 năm. Tình yêu của thánh nhân đối với Chúa, tài giáo dục của Ngài và cảm quan đối với những nhu cầu của thành phần trẻ trong những điều kiện đang biến đổi về xã hội, chính trị và luân lý vào thời ấy đã làm Ngài được chú ý tới. Khi phụ nữ được quyền học đại học thì Ngài đã tiến hành một cách có tổ chức ngôi nhà trọ đầu tiên ở Balan cho sinh viên nữ giới, nơi duy nhất họ có thể cảm thấy an toàn để sống và học hành cũng như để được giáo dục đàng hoàng về đạo hạnh. Lòng ước vọng này, được Ðức Piô X chúc lành, đã tăng sức cho Ngài tiến vào giữa lòng Nước Nga là nơi thù hận với Giáo Hội. Với bộ áo thường dân, cùng với một chị nữ tu khác, Ngài đã ra đi đến Petersburg, nơi đời sống tu trì bị cấm cách, Ngài không biết rằng Ngài đã đâm đầu vào một đích điểm vô định và Thánh Linh sẽ dẫn Ngài trên những con đường Ngài chưa từng tiên liệu. 

Ở Petersburg, Ngài cùng với cộng đồng nữ tu đang phát triển đều đặn (chẳng bao lâu được trở thành một hội dòng Ursuline độc lập) sống một cách bí mật, và mặc dù bị liên lỉ theo dõi bởi cảnh sát chìm, họ cũng thực hiện một dự án giáo dục và tôn giáo lớn là những gì cũng nhắm tới việc khuyến khích những mối liên hệ giữa Balan và những người Nga. 

Khi chiến tranh bùng nổ vào năm 1914, Thánh Nhân rời Nga, nhắm đến Stockholm, để rồi trong những chuyến đi ở Bắc Âu (Thụy Ðiển, Ðan Mạch, Na Uy), hoạt động của Ngài chẳng những về giáo dục mà còn cả sinh hoạt ở Giáo Hội địa phương nữa, qua việc trợ giúp những nạn nhân chiến tranh và công cuộc đại kết. Nhà Ngài ở với các nữ tu của Ngài trở thành một nơi qui tụ các người khác nhau về khuynh hướng chính trị và tôn giáo. Có lần được hỏi khuynh hướng chính trị của mình, Ngài trả lời lập tức 'chính trị của tôi là yêu thương'. 

Vào năm 1920, Ngài cùng với chị em của Ngài và một số lớn trẻ em mồ côi của những người di dân trở về Balan. Trung Tâm Tông Ðồ biến thành nữ tu viện độc lập cho 'Các Nữ Tu Ursulilnes của Thánh Tâm Sầu Khổ Chúa Giêsu'. Linh đạo của hội dòng này nhắm đến việc chiêm ngưỡng tình yêu cứu độ của Chúa Kitô và tham dự vào sứ vụ của Ngài bằng những dự án giáo dục và phục vụ người khác, nhất là thành phần đau khổ, cô đơn và bị bỏ rơi đang tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời. Thánh nhân đã huấn luyện các chị em của mình trong việc yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và tìm kiếm Ngài nơi hết mọi con người cũng như nơi tất cả Tạo Sinh. 

Hội dòng này đã phát triển nhanh chóng. Các cộng đồng nữ tu Ursuline ở Balan cũng như ở các ranh giới phía đông xứ sở này là những nơi nghèo nàn, đa chủng và đa giáo đã được thiết lập. Năm 1928, Nhà Mẹ đã được thiết lập ở Rôma cùng với một nhà trọ cho những em gái không được may mắn về kinh tế, để giúp cho họ có cơ hội giao tiếp với sự phong phú về tinh thần và tôn giáo giữa lòng Giáo Hội và nền văn minh Âu Châu. Các nữ tu bắt đầu hoạt động ở những khu ngoại ô Rôma nghèo nàn. Năm 1930, các nữ tu dòng này đã đi theo những người em gái đi tìm việc làm và thiết lập ở Pháp quốc. Bất cứ nơi nào có thể thì vị thánh này đều thiết lập những trung tâm giáo dục và dạy nghề. Ngài đã gửi các nữ tu đi dạy giáo lý và hoạt động ở những khu vực nghèo khổ trong thành phố. Ngài đã viết các sách vở và bài viết về trẻ em và giới trẻ. 

Ngài đã khởi xướng và duy trì các tổ chức giáo hội cho trẻ em (Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể), cho giới trẻ và cho phụ nữ. Ngài đã chủ động tham dự vào sinh hoạt của Giáo Hội cũng như của Quốc Gia và được cả Giáo Hội và Quốc Gia khen tặng. Ngài qua đời tại Rôma ngày 29/5/1939 và được dân chúng nói rằng "Ngài chết như một vị thánh". ÐTC Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho Ngài ngày 20/6/1983 ở Poznan và nâng Ngài lên hàng hiển thánh ngày 18/5/2003.

Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo VIS
(Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Santi-Beati-Testimoni)