HÌNH
ẢNH MỘT NGƯỜI CHA:
ÐỨC TGM PHILIPPHÊ NGUYỄN KIM ÐIỀN
(Nhân ngày giổ 10 năm của Ngài:
8-6-1988 đến 8-6-1998)
Nguyễn Lý-Tưởng
Những biến cố xảy ra từ
tháng 5,1963 và những ngày tháng sau đó đã ít nhiều làm xáo trộn
nếp sống của người dân xứ Huế, nhất là đối với một sinh
viên Công Giáo như chúng tôi. Trước ngày 26/10/1963, tôi là một
trong ba người được anh em sinh viên Công Giáo Huế cử đi Sài Gòn
họp Tổng Liên Ðoàn Sinh Viên Công Giáo Ðại Học Việt Nam, có Cha
Tuyên Úy cùng đi với chúng tôi. Chiều ngày 1 tháng 11, 1963, trong
lúc chúng tôi đang họp tại Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ, đường
Nguyễn Thông Quận 3 Sài Gòn, cạnh trường Regina Pacis thì tiếng súng
của phe quân nhân đảo chính Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bắt
đầu...cho đến ngày hôm sau, 2-11-1963 thì chúng tôi được tin Tổng
Thống Ngô Ðình Diệm và bào đệ là Ông Cố Vấn Ngô Ðình Nhu đã
bị thảm sát...Tôi chạy đến Trung Tâm Công Giáo ở đường Nguyễn
Ðình Chiểu tìm Cha Tuyên Úy...Ngài nói với tôi: - Có biết Cha
Thuận ở đâu không, nhắn Ngài vào Bộ Tổng Tham Mưu xin làm phép
xác cho hai ông Ngô Ðình Nhu và Ngô Dình Diệm...
(Cha Thuận tức là Ðức Tổng
Giám Mục Nguyễn Văn Thuận sau nầy...). Tôi trả lời:
- Con nghe tin Cha Thuận đã trở về Huế rồi.
Trung Úy Trọng, em ruột của Cha
Bermand Nguyễn Văn Thảo (Dòng Xitô Châu Sơn) đang có mặt ở đó. Anh
thuộc Lữ Ðoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống...Anh nói với
chúng tôi:
- Hai ông đã chết rồi...bị họ giết rất
dã man...
Tôi liền chạy đến nhà anh
Hồ Ngọc Tâm, lúc đó là Ðại Úy thuộc Lữ Ðoàn Phòng Vệ và
biệt phái qua làm tại Phòng I Tổng Tham Mưu. Anh nói với tôi: -Chính
mắt tôi chứng kiến, họ giết hai ông rồi, hiện đang để trên branca
có phủ một cái khăn trắng, nằm nơi bãi cỏ cạnh gốc cây...
Tôi trở về nhà người bà
con với tâm trạng rất buồn...Tiếng nhạc kích động từ trong một
building của Mỹ ở đường Bùi Thị Xuân vang lên rất lớn, tiếng
nhạc điên cuồng, thác loạn làm cho tôi cảm thấy đau xót và thật
mỉa mai trước cái cái tang của một Tổng Thống. Từ đây, với
súng đạn trong tay, người ta muốn làm gì thì làm. Một Tổng Thống
mà không được Hiến Pháp và Luật Pháp bảo về thì số phận của
người dân sẽ ra sao ? Với tuổi trẻ và đang được nghe thầy giáo
dạy các bài về chế độ dân chủ trong lớp, tôi thấy thật mâu
thuẫn. Ở Huế, cảnh náo loạn xảy ra thường xuyên. Những người
tự xưng là "TRANH ÐẤU" muốn bắt ai thì bắt, muốn buộc tội
ai thì buộc, chính quyền làm ngơ để cho họ tha hồ hành động. Ngày
nào cũng có biểu tình, tranh đấu, trường học phải đóng cửa,
những ai muốn đi học cũng bị ngăn cản, những tên du đảng, lực
lượng xích lô kéo vào chiếm các phòng ốc trong đại học, ở đó
luôn, tắm rửa, đem đồ lót phơi ngay cửa sổ phòng học, người qua
lại ở ngoài đường đều nhìn thấy. Tình trạng khủng bố người
theo đạo Công Giáo ở những vùng xa xôi hẻo lánh, nhất là những
nơi tân tòng...Và ngay trong thành phố, những người Công Giáo buôn
bán làm ăn, ai có nhà cao cửa rộng, ai có máu mặt...cũng bị chụp
mũ "Kinh Tài Cần Lao" khiến cho nhiều người phải bán nhà
cửa, sang lại tiệm buôn để chạy vào Sài Gòn...
Trước tình hình đen tối như
thế, sự chia rẽ trầm trọng giữa người Việt Nam không cùng một
tôn giáo, sự kỳ thị, bất công giữa những người cũ và mới
trong chính quyền, mới hôm trước hôm sau đã trở mặt: công chức,
cảnh sát, sĩ quan Công Giáo trong quân đội v.v. bị thuyên chuyển, bị
kỷ luật...đã làm cho anh em chúng tôi rất thất vọng. Tôi là một
sinh viên, bản thân và gia đình tôi không có hưởng nhờ quyền
lợi gì của chế độ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Cha và anh tôi,
những người thân thuộc trong gia đình, họ hàng của tôi đã đứng
trong hàng ngũ những người quốc gia chống lại Việt Minh, chống lại
Cộng Sản và đã bị Cộng Sản giết trước năm 1954, trước khi Ông
Ngô Ðình Diệm về nước chấp chánh. Năm 1954, tôi còn là học sinh
Trung Học, năm 1963, tôi còn là sinh viên Ðại Học, chưa tốt nghiệp,
chưa đi làm...Tôi hoàn toàn không mang mặc cảm nào hết về sự
liên hệ với chế độ đó, tôi thấy cần phải dấn thân vào con
đường tranh đấu để loại trừ những tên Cộng Sản nằm vùng trong
sinh viên, để liên kết những người quốc gia, nhất là những bạn
bè có thân nhân là nạn nhân Cộng Sản, thành một lực lượng
hầu phá vỡ âm mưu của bọn Cộng Sản và tay sai, ít nhất trong phạm
vi học đường.
Lúc đó tôi đang sinh hoạt
với tổ chức Thanh Niên Thiện Chí, anh em thường tổ chức đi cắm
trại ở vùng quê, làm công tác xã hội. Tôi đề nghị Cha Tuyên
Úy SVCG và anh em trong Ban Chấp Hành Ðoàn Sinh viên Công Giáo tổ
chức những chuyến thăm viếng các xứ tân tòng, tổ chức lửa
trại, văn nghệ, phát quà của cơ quan Caritas cho người nghèo, tổ
chức thánh lễ cho họ...mục đích an ủi họ trong cảnh bị kỳ thị, áp
bức, thậm chí nhiều người còn bị khủng bố, đánh đập (trong đó
có linh mục Nguyễn Cao Lộc ở xứ Mỹ Á đã bị bọn người kỳ thị
tôn giáo đánh...)
Trong giáo phận lúc đó không
có Giám Mục, Ðức TGM Phêrô Ngô Ðình Thục đang họp ở Roma và
Ngài đã ở luôn không về...Con chiên không có Chủ Chăn, thật bơ
vơ ! Một hôm, chúng tôi được thông báo đi đón Ðức Tân Tổng
Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Ðiền, nguyên Giám Mục Mỹ Tho sẽ đến
Huế thay thế Ðức TGM Phêrô...Tôi rất mừng vì khoảng 1959, tôi
đã từng gặp Ngài ở Dalat trong dịp nghỉ hè. Tôi đã được dự
thánh lễ và nghe Ngài giảng tại trụ sở của các cha Dòng Tiểu
Ðệ Chúa Giê Su...Ngài trẻ trung, khiêm tốn, rất khôi ngô và rất
lôi cuốn giới trẻ lúc đó. Tôi đã được nói chuyện với Ngài
một vài lần trước khi Ngài nhận chức Giám Mục Cần Thơ. Ngài
nói giọng Miền Nam rất ngọt ngào, nụ cười duyên dáng, thánh
thiện đầy tình yêu thương, bác ái...Tôi nghe nói Ngài đã từ
chối khi được Tòa Thánh chọn làm Giám Mục, Ngài nói rằng Ngài
thuộc dòng hèn mọn với lý tưởng phục vụ người lao động nghèo
và cùng chia xẻ với họ trong công việc hằng ngày, Ngài không muốn
làm Giám Mục vì sợ không còn được phục vụ dưới hình thức
như thế nữa. Nhưng nghe đâu Ðức Khâm Sứ Tòa Thánh đã trả
lời rằng: Ðức Thánh Cha chỉ cần sự vâng lời mà VÂNG LỜI là
một trong ba lời thề quan trọng nhất của Linh Mục. Thế là Ngài đã
trở thành Giám Mục Cần Thơ.
Ở Huế lúc bấy giờ rất ít
người biết đến Ngài, ngoại trừ một số các Cha có giao thiệp
với bên ngoài giáo phận, có đi đây đi đó, đa số đều chỉ biết
đến những chuyện trong địa phương mình mà thôi. Ngày Ngài đến
Huế, có Ðức Tổng Giám Mục Sài Gòn, Phaolô Nguyễn Văn Bình và
một số các vị Giám Mục đi theo. Ðức Khâm Sứ Tòa thánh cũng có
mặt trong phái đoàn. Hôm đó, các linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo
hữu trong giáo phận đã đến nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế,
đường Nguyễn Huệ, TP Huế để đón Ðức Cha. Anh em sinh viên Công
Giáo chúng tôi được trao cho nhiệm vụ tổ chức tiếp đón. Phút
gặp gỡ đầu tiên thật là cảm động, giọng Ðức Cha Bình trong
phần giới thiệu cũng rất xúc động, nhất là khi nghe Ðức Cha
Ðiền nói, mọi người càng cảm động hơn nữa. Nhiều người sụt
sùi khóc vì từ nay, giáo phận đã có người Cha tốt lành, thánh
thiện, khôi ngô, ngọt ngào, giọng nói của Ngài như tiếng mẹ ru
bên nôi bằng những lời ca dao đượm tình dân tộc.
Từ đó, tôi có dịp liên
lạc với Ngài thường xuyên. Tôi muốn làm cho những bạn bè của
tôi, những người ngoài Công Giáo biết đến Ngài. Tôi nghĩ rằng,
khi tiếp xúc với Ngài chắc chắn những người đó sẽ có cảm
tưởng tốt đối với Công Giáo, qua Ngài, họ sẽ thấy được tinh
thần bác ái, yêu thương của người Công Giáo. Sau nhiều lần tiếp
xúc với tôi và qua những người trong gia đình, họ hàng của tôi
hiện là linh mục trong giáo phận, Ngài đã hiểu tôi nhiều...Tôi
thường nói về Ngài khi có dịp gặp những người quen biết trong
giới chính trị và trong giới trí thức...Họ đã nhờ tôi làm trung
gian để đến với Ngài...Kết quả là rất nhiều người sau khi gặp
Ngài, đã tỏ ra rất có cảm tình và mến phục Ngài.
Với giọng nói ngọt ngào như
thế, nhưng Ngài cũng không thiếu cương quyết trong công việc. Cựu
Nghị Sĩ Nguyễn Văn Mân, nay đã ngoài 80 tuổi, hiện đang còn sống
ở Houston, Texas, Hoa Kỳ, có kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây...Năm
1964, ông được Bộ Nội Vụ Sài Gòn cử ra Huế giải quyết một
việc rắc rối có liên quan đến Công Giáo ở Huế. Ông Mân nguyên
là tỉnh trưởng Quảng Trị năm 1947 thời Cụ Trần Văn Lý làm Hội
Ðồng Chấp Chính Lâm Thời khi quân Pháp mới đổ bộ vào Huế,
Quảng Trị. Ông là Phó Chủ Tịch Thanh Niên Liên Ðoàn Công Giáo VN
ở miền Trung năm 1945-1946 lúc đó LM Trần Hữu Thanh DCCT là Tuyên
Úy, ông có người chú ruột làm linh mục và người em cô cậu là
Ðức TGM Nguyễn Như Thể hiện nay.
Nguyên sau cuộc chỉnh lý của
Tướng Nguyễn Khánh ngày 30-1-1964 tại Sài Gòn, Thiếu Tướng Tôn
Thất Xứng được lên làm Tư Lệnh Vùng I kiêm Ðại Biểu Chính Phủ
tại Trung Nguyên Trung Phần, văn phòng đặt tại Ðà Nẵng và Ðại
Tá Nguyễn Chánh Thi về làm Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 ở Huế. Không biết
do ai xúi giục, Tướng Tôn Thất Xứng đã gởi một văn thư đến
Tòa Tổng Giám Mục Huế, yêu cầu Ðức Cha Ðiền giao nạp cho chính
quyền tài sản của "Ông Ngô Ðình Thục" trong đó có chiếc
xe hơi mà Ðức Cha Ðiền, với tư cách là Tổng Giám Mục Huế đang
sử dụng. Khi tiếp được văn thư, Ðức TGM Nguyễn Kim Ðiền đã
trả lời Vị Ðại Biểu Chính Phủ nội dung như sau:
"Tất cả nhà cửa, xe cộ,
tài sản hiện chúng tôi đang quản lý với tư cách là Tổng Giám
Mục TGP Huế là của Giáo Hội Công Giáo, không phải là tài sản
của "Ông Ngô Ðình Thục". Nếu Ông Thiếu Tướng Tư Lệnh
Quân Ðoàn I kiêm Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật, kiêm Ðại Biểu Chính
Phủ tại Trung Nguyên Trung Phần muốn tịch thu các tài sản đó thì
yêu cầu Ông hãy đưa quân đội và khí giới đến đây mà lấy.
Ký tên: Philipphê Nguyễn Kim Ðiền, Tổng Giám Mục."
Thư trả lời đó, Ðức Cha
cũng gởi cho Bộ Nội Vụ ở Sài Gòn. Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ
lúc đó là Ông Hà Thúc Ký, tiếp được thư nói trên liền cử
Ông Nguyễn Văn Mân đại diện Bộ ra Huế liên lạc với Tòa Ðại
Biểu đồng thời cũng đến gặp Ðức TGM Nguyễn Kim Ðiền để tìm
hiểu sự việc. Ai nghe chuyện cũng cười Ông Tướng quá dốt về
chính trị. Tất nhiên sau đó không ai còn dám đòi tịch thu tài sản
của "Ông Ngô Ðình Thục" mà họ quan niệm đó là tài sản
của " gia đình họ Ngô"!!!
Mới đến Huế chẳng bao lâu,
Ðức Cha liền đi thăm các giáo xứ tân tòng ỡ những miền quê
xa xôi hẻo lánh và thường đi xe gắn máy đến các giáo xứ gần,
trong phạm vi thành phố. Ngài đến không báo trước, có khi gặp cha
sở, có khi không có ai ở nhà...Ngài tự động đi thăm các gia
đình Công Giáo trong xứ, hỏi han người nầy người nọ làm cho con
chiên rất phấn khởi và được an ủi rất nhiều. Ngài tránh không
hề nhờ vả đến các phương tiện của chính quyền đương thời...
Năm 1964, có trận bão lụt
lớn ở các tỉnh Miền Trung. Lúc đó Ông Trần Văn Hương mới lên
làm Thủ Tướng ở Sài Gòn, sinh viên và Phật tử ở Huế và
các tỉnh Miền Trung biểu tình chống đối...Chúng tôi thấy nội bộ
quốc gia càng ngày càng chia rẽ trầm trọng, thanh niên, sinh viên học
sinh bị lôi cuốn vào những cuộc đấu tranh chính trị, bỏ việc học
hành, tuổi trẻ đã bị lợi dụng cho một nhóm người có tham vọng
chính trị hoặc bọn thân Cộng từ trong bóng tối đang giựt giây.
Chúng tôi bèn vận động anh em sinh viên Công Giáo và sinh viên
thiện chí tổ chức những chuyến cứu trợ đồng bào...Chúng tôi
mượn xe của quân đội và xin ông Tỉnh Trưởng Thừa Thiên (Trung
Tá Võ Hữu Thu) cấp cho một số quần áo, thực phẩm của Ty Xã Hội
để đem cho đồng bào. Anh em sinh viên đi từng nhà quyên góp tiền
bạc, quần áo v.v. Chúng tôi vào gặp Ðức Cha Ðiền để trình bày
công việc của anh em sinh viên cho Ngài biết. Ngài tự động tháo
gỡ giây chuyền có tượng Thánh giá đang đeo trước ngực...và
nói với tôi:
- Những người bạn ở Tây Ðức đã tặng
cho Cha thánh giá và giây chuyền nầy. Cha giữ lại thánh giá, còn
giây chuyền trao cho con đem bán để lấy tiền giúp vào quĩ cứu
trợ. Ðây là phần đóng góp của cá nhân Cha.
Tôi hơi có vẻ ngần ngại,
rồi bỗng một ý nghĩ hay hay đã đến với tôi lúc đó. Tôi nói:
- Con sẽ có cách sử dụng kỷ vật nầy.
Ðể con làm theo cách của con xem thử kết quả ra sao.
Tôi mang giây chuyền bằng
vàng Tây đó về và cùng mấy anh chị em sinh viên đi đến các nhà
giàu hỏi giá. Giáo sư Martine Piat, dạy Pháp văn, cho giá 50.000 đồng
lúc đó, bằng mười lần lương của một Trung Úy độc thân. Tôi
không chịu bán với giá đó và quyết định làm theo kế hoạch của
tôi. Tôi in ra 1000 vé số, mỗi vé 200 đồng, lô trúng duy nhất là
giây chuyền vàng của Ðức Cha Ðiền. Trong dịp hành hương đầu năm
kính Ðức Mẹ La Vang, chúng tôi bán hết số vé đã in, được
200.000 đồng cho vào quỹ cứu trợ. Cha Demerck, Dòng Tên ở Trung Tâm
Xavie trúng giây chuyền đó và đã tặng lại cho Ðức Cha Ðiền ngay
sau đó. Ðức Cha rất ngạc nhiên và khen sáng kiến của chúng tôi.
Ðoàn sinh viên Công Giáo Huế
đã mang số tiền quyên góp được và số thực phẩm, áo quần vào
Ðà Nẵng, ở lại một đêm tại Trường Thánh Tâm, yết kiến Ðức
Giám Mục Phạm Ngọc Chi, xin ý kiến của Ngài về vấn đề cứu trợ
nên đến những đia điểm nào...Hôm sau đoàn xe của chúng tôi vào
Hội An, nước còn mênh mông chưa rút hết...Chiều đó, chúng tôi
vào tận Quảng Tín, đến tận các nhà thờ xa xôi hẻo lánh, gặp
các linh mục và trực tiếp phân phối tiền và phẩm vật cứu trợ
cho đồng bào...Khi trở về, chúng tôi đã báo cáo lại với Ðức
Cha Ðiền các họat động của anh em và trình cho Ngài những hình ảnh
mà chúng tôi đã chụp được trong chuyến đi. Ngài ban lời khen
ngợi anh em...
Mùa Hè năm 1966, tình hình ở
Huế và Miền Trung rất căng thẳng, phe "TRANH ÐẤU" đang phát
động những cuộc biểu tình bạo động, cướp chính quyền nhân vụ
Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Ðoàn I...mất chức. Tướng
Nguyễn Chánh Thi đã dựa vào lực lượng tranh đấu để làm áp
lực với Sài Gòn hầu củng cố cho địa vị của ông ở Miền Trung.
Các cuộc tranh đấu đó lúc đầu do những người ủng hộ Nguyễn
Chánh Thi chủ xướng, nhưng sau đó bị tràn ngập bởi lực lượng
Phật tử và sinh viên tranh đấu, trong đó có nhiều phần tử thân
Cộng như Nguyễn Ðắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Lê Hiếu Ðằng, Lê Quang Long, Phan Duy Nhân v.v. Chúng tôi cũng
tập hợp một lực lượng sinh viên chống Cộng để tự vệ và
chống lại các sinh viên thiên Cộng. Tôi đi vào Sài Gòn trình bày
tình hình với Trung Ương và tiếp xúc với báo chí mục đích nói
rõ các hoạt động của Cộng Sản trong sinh viên để cho dư luận
biết...
Hôm đó, không có máy bay
Huế - Sài Gòn, tôi bèn đổi máy bay đi Dalat. Tôi gặp Ðức Cha tại
phi trường, Ngài cũng đi Dalat. Máy bay đến phi trường Liên Khương,
không có ai đón Ngài cả...không hiểu tại sao. Tôi liền mượn
điện thoại gọi lên Ðại Học, báo tin cho Cha Viện Trưởng Nguyễn
Văn Lập và xin xe đón Ngài. Từ Liên Khương lên Dalat khoảng 30 cây
số, khá xa so với các phi trường khác ở Việt Nam hồi đó. Lợi
dụng thời gian từ phi trường Phù Bài Huế cho đến khi về tới
Ðại Học Dalat, tôi trao đổi với Ngài về tình hình ở Huế. Ngài
rất quan tâm và lắng nghe rất đầy đủ những gì tôi trình bày.
Trong Tết Mậu Thân, lúc đó
tôi đang làm Dân Biểu HNV, đơn vị Thừa Thiên, được đi theo để
hướng dẫn phái đoàn các Giám Mục Việt Nam do Ðức TGM Nguyễn Văn
Bình hướng dẫn ra thăm Huế. Phái đoàn đến Ðà Nẵng, và đã
được Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Ðoàn I cho máy bay
trực thăng đưa ra Huế, có Ðức Cha Phạm Ngọc Chi cùng đi theo. Máy
bay đã đáp xuống sân đá banh trước mặt Dòng Chúa Cứu Thế
Huế, Ðức Cha Ðiền đã đến đó để đón tiếp phái đoàn. Ðồng
bào nạn nhân cũng có mặt rất đông ở đó. Ðức Cha Bình đã
thay mặt các Ðức Cha và phái đoàn an ủi anh em giáo hữu, tặng
quà và ban phép lành cho họ. Những hình ảnh tang tóc trong Tết Mậu
Thân đã khiến cho Ðức Cha Ðiền rất đau xót.
Giáo Xứ Phủ Cam, nơi có nhà
thờ chính tòa là nơi Ðức Cha thường đến đó cử hành những
nghi lễ long trọng, đã trở nên một nơi đầy máu và nước mắt.
Có hơn ba trăm người đã bị Việt Cộng bắt đi và đã bị thảm
sát tại Khe Ðá Mài, quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên. Khoảng tháng 10
năm 1969, khi Ðức TGM Nguyễn Kim Ðiền mới từ Roma về đến Huế,
Ngài được tin chính quyền mới tìm được mấy trăm nạn nhân bị
thảm sát vất xác dưới khe Ðá Mài, lâu ngày, thịt thối rữa hết
chỉ còn sọ người và xương xóc nằm lẫn lộn thành một đống.
Những hình ảnh đó đã được chiếu trên Truyền Hình và tin tức
được loan báo trên đài Phát Thanh...Ðức Cha rất xúc động.
Ngay khi Ngài vừa về đến Sai
Gòn, chưa có mặt ở Huế thì có một vị Dân Biểu địa phương đã
nói với báo chí rằng: "Ông Nguyễn Kim Ðiền, TGM ở Huế đã
dính vào vụ tranh chấp những xác chết đó". Lúc bấy giờ có
nhiều sự bất đồng giữa các nhân vật có thế lực đại diện cho
các tổ chức tôn giáo, chính trị tại địa phương về địa điểm sẽ
được an táng các nạn nhân. Chúng tôi đã đến gặp đại diện
các tôn giáo cũng như Hội Nạn Nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân
để hỏi ý kiến và cuối cùng đã quyết định sẽ an táng các nạn
nhân tại chân núi Ba Tầng, gần núi Ngự Bình, phía sau lưng làng
Phủ Cam.
Qua Ðài Phát Thanh và Ðài
Truyền Hình Huế, chúng tôi đã trình bày với đồng bào mọi diễn
tiến và quyết định của Ban Tổ Chức tang lễ, kêu gọi mọi người
bình tĩnh, tránh những hành động hay lời nói gây chia rẽ có hại
cho tình đoàn kết quốc gia. Chúng tôi cũng cho báo chí biết sự
việc xảy ra khi Ðức TGM còn ở ngoại quốc, Ngài hoàn toàn không
hay biết gì...Khi về đến Huế, Ngài đã đến nhà thờ chính tòa
dâng thánh lễ cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình của họ và
tuyên bố Công giáo không liên quan gì đến cuộc tranh chấp nói
trên.
Cảm động nhất là trong lễ an
táng của hai linh mục Gioan Baotixita Bửu Ðồng và Micae Hoàng Ngọc Bang
cùng hai sư huynh dòng La San bị Việt Cộng chôn sống tại Phú Thứ,
cử hành tại nhà thờ Phủ Cam ngày 12 tháng 11, 1969, Ngài đã đọc
một bài điếu văn làm cho mọi người không cầm được nước
mắt.
Sau Tết Mậu Thân, cơ sở
Dòng Kín Carmel Huế bị hư hại nặng. Quá kinh hoàng nên Mẹ và chị em
trong Dòng đã vào tạm trú tại nhà Ông Nguyễn Văn Bửu, Phú
Nhuận Sài Gòn. Vào một buổi sáng rất sớm, chúng tôi vừa thức
dậy, chuẩn bị đi làm thì một nữ tu đến báo tin Cha Bề Trên Benoit
Nguyễn Văn Thái, Dòng Bénédictin Thiên An Huế mới bị chết do Việt
Cộng pháo kích vào Sài Gòn hôm qua. Ngài đã đến thăm ông Nguyễn
Văn Bửu và ông nầy đã nhường phòng ngũ của mình cho ngài tạm
trú...Các nữ tu quá hoảng sợ và không biết giải quyết làm sao.
Tôi bèn gởi điện tín báo tin cho Các Bề trên Dòng Bénédictin ở
Huế, Ban Mê Thuột và báo cho Ðức TGM Huế biết. Ðồng thời tôi
cũng nhờ Cha Cao Văn Luận và Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng, Phụ Tá
Tổng Thống lúc đó nhờ tìm cách giúp nhà Dòng đưa xác Cha Bề
Trên về an táng ở Huế. Ít lâu sau, tôi nhận được thư viết tay
của Ðức Cha Ðiền cám ơn về việc đó.
Tết năm 1971, tôi đưa vợ con
đến thăm Ngài. Trong phòng khách của Tòa TGM Huế lúc đó có nhiều
giáo hữu ở trong khu vực lân cận cũng đến thăm Ngài. Con gái
đầu của tôi là H.A đưa tay nắm lấy tượng Thánh giá Ngài đang
đeo ở trước ngực, không chịu buồng ra. Vợ tôi tỏ vẻ lo lắng,
sợ vô lễ với Ngài...Nhưng Ngài tươi cười ẳm cháu vào lòng
và nói rằng: "Giây chuyền đeo tượng nầy, Cha đã trao cho ba con
đi bán rồi, nhưng nay vẫn còn đây. Ðó là ý Chúa vậy..."
Ngài muốn nhắc lại câu chuyện cứu trợ nạn nhân bão lụt hồi
1964, khi tôi còn là sinh viên, Ngài đã tặng giây chuyền đó cho anh
em đem đi bán để giúp vào quỹ cứu trợ....
Cuối năm 1973, có người anh
ruột vợ tôi chịu chức linh mục. Ðức Cha đã quyết định sẽ tổ
chức lễ phong chức cho thầy đó tại ngay nhà thờ giáo xứ Phù
Lương, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Ðó là một trường hợp
rất đặc biệt vì xưa nay những lễ nghi long trọng như thế đều tổ
chức tại nhà thờ chính tòa Phủ Cam, Huế. Trước khi vào lễ Ngài
đã nhắc lại hoàn cảnh gia đình cha mẹ anh em của vị tân linh mục,
là nạn nhân của biến cố Mậu Thân 1968 ở Huế, cha chết, ba đứa
em chết, nhà cửa hư hại, mẹ con phải chạy về nương náu tại giáo
xứ Phù Lương. Mặc dù trong hoàn cảnh như thế nhưng bà mẹ và anh
em chỉ một lòng xin Chúa ban cho người con của gia đình được làm
linh mục...Bài giảng rất cảm động với mục đích cho mọi người
biết quý trọng ơn kêu gọi và giúp người đi tu được trung thành
với ơn gọi. Khi gia đình đến Tòa Giám Mục để cám ơn, Ngài đã
đón tiếp rất nồng hậu trong tình cha con...
Sau hiệp định Paris, 27-1-1973,
Phong Trào Sùng Kính Ðức Mẹ (Ðạo Binh Xanh) đã đứng ra tổ chức
rước tượng Ðức Mẹ Fatima đến Việt Nam để cầu nguyện cho Hòa
Bình. Từ Sài Gòn, tượng Ðức mẹ đã được đưa ra Huế rồi
trở vô Ðà Nẵng, Qui Nhơn, Mỹ tho, Cần Thơ...Máy bay đưa tượng
Ðức Mẹ ra Huế, Ðức Cha Ðiền đón tại phi trường Phù Bài và
đi đường bộ ra La Vang. Ngài không đồng ý sử dụng máy bay trực
thăng vì Ngài tránh không dùng phương tiện của chính quyền. Ðức
Cha Chi rất nôn nóng vì Ngài cũng cần đón tượng Ðức Mẹ về
Ðà Nẵng cho kịp giờ...Nhưng đành phải chịu. Tại La Vang, sau khi tôn
vinh Ðức Mẹ xong thì Ðức Cha Chi rước tượng Ðức Mẹ lên máy
bay trực thăng bay vô Ðà Nẵng ngay vì đồng bào đang đợi Ngài ở
đó. Trong bài giảng tại Vương Cung Thánh Ðường La Vang đổ nát,
Ðức TGM Nguyễn Kim Ðiền đã lên án cả hai bên : Quốc Gia cũng như
Cộng Sản, Ngài đả kích những hành vi tham nhũng, thối nát, chính
quyền phải chịu trách nhiệm về một xã hội nghèo đói, chậm tiến,
bất công...Bài giảng của Ngài đã được phổ biến tại Sài
Gòn...Phát biểu trong cuộc họp của Hội Ðồng Giám Mục Á Châu,
Ngài cũng đã nhắc lại những tư tưởng đó. Ngài nói rằng Giáo
Hội phải xét lại mình, xem có đi đúng đường lối của Ðức Kitô
hay không ? Cái nhìn của Ngài về vấn đề người nghèo...cũng đã
được chú ý rất nhiều trước đây.
Lần cuối cùng chúng tôi gặp
Ngài vào cuối năm 1973, từ đó không còn dịp nào trở về Huế
để thăm Ngài nữa. Sau 30-4-1975, ở trong nhà Tù CS, tôi được Trung
Tá Nguyễn Thế cho xem bài diễn văn của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II
trong dịp tiếp phái đoàn Giám Mục Việt Nam, khoảng 1980 và tài liệu
"Ðường Hy Vọng" của Ðức TGM Nguyễn Văn Thuận biên soạn.
Ðức Thánh Cha đã ca tụng Ðức TGM Nguyễn Kim Ðiền là một người
can đảm...Tôi không biết tình hình bên ngoài lúc đó như thế nào
vì mới ở nhà giam Hỏa Lò Hà Nội về...Một số anh em có gia đình
đến thăm, biết được một vài tin tức của Giáo Hội...đã cho
biết Ðức TGM Nguyễn Kim Ðiền đã lên tiếng tố cáo chính sách
tiêu diệt tôn giáo của CSVN và đang bị quản chế ...Anh em chúng tôi
đã nhắc nhở nhau cầu nguyện cho Ngài. Ðầu năm 1988, tôi gặp Linh
Mục Nguyễn Văn Lý, nguyên bí thư của Ðức Cha Ðiền bị kết án 15
năm tù mới được chuyển đến Trại Nam Hà (tỉnh Hà Nam Ninh),
được Cha Lý cho biết thêm một vài chi tiết về Ðức Cha Ðiền.
Tết năm đó, tôi được ra khỏi nhà tù, về với gia đình tại
Sài Gòn. Tôi rất muốn đi Huế thăm Ðức Cha nhưng không có phương
tiện vã lại cùng còn ngại công an theo dõi nên không dám đi lại
nhiều. Tháng 5,1988 tôi được tin Ðức Cha đau nặng phải đem vào
bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Tôi muốn đến thăm nhưng lại được
tin Công An canh gác không cho người ngoài đến đó. Thế rồi khoảng
hai tuần sau, chúng tôi nghe đài BBC loan báo Ngài đã qua đời. Các
đài VOA, BBC, đài Pháp, đài Chân Lý Á Châu ở Manila đều loan tin
kèm theo lời bình luận về cái chết của Ngài. Dư luận trong và
ngoài nước đều cho rằng chính Cộng Sản đã giết Ngài (hoặc trực
tiếp hoặc gián tiếp...)
Tôi và gia đình, bạn bè đã
đến nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn để kính viếng Ngài. Trong thánh
lễ cầu nguyện và tiễn đưa Ngài về Huế, Ðức Tổng Giám Mục
Nguyễn Như Thể đã đọc một bài cám ơn rất cảm động, ca đoàn
nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn đã hát những bài thánh ca rất ý
nghĩa. Mọi người đều chảy nước mắt vì mến thương một vị Thánh
đã từ giã chúng ta trên cõi đời nầy...Hôm nay, nhân lễ giổ 10
năm của Ðức TGM Nguyễn Kim Ðiền, chúng tôi viết lại một vài kỷ
niệm tình Cha con, những ngày tháng mà chúng tôi đã được sống
gần Ngài, với ước mong các con cái của Ngài,những giáo hữu
Cân Thơ, Huế và Việt Nam đừng bao giờ quên hình ảnh MỘT NGƯỜI
CHA TỬ ÐẠO trong giai đoạn mới nầy, dưới chế độ Cộng Sản.
Chúng ta đã quên Ngài rồi
chăng ? Không, không thể như thế được ! Chúng ta phải làm một
cử chỉ gì để nhớ đến Ngài, nhất là trong ngày giổ 10 năm của
Ngài.
Nguyễn Lý-Tưởng. |