Một vài thắc mắc về Đức Đồng Trinh của Đức Mẹ
Để tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ, tôi xin cống hiến một số bài
vở về Đức Mẹ. Những bài này, không phải ý kiến của cá
nhân tôi, vì thế, tôi không có công trạng gì, nếu có, chỉ
là bỏ chút thời gian sưu tầm các tài liệu có liên quan đến
đề tài được trình bày, mà đa số lấy từ lớp giáo lý,
hộ giáo (apologetics) và kinh thánh nơi giáo xứ tôi đang phục
vụ.
Đề tài 1: Đức Đồng Trinh trọn đời
của Mẹ Thiên Chúa
Giáo Hội Công giáo dạy rằng Đức Maria đồng trinh trước,
đang vàsau khi sinh Chúa Giê-su. Toàn thể các người Ki-tô giáo
tin Đức Mẹ đồng trinh trước khi sinh con, và đa số chấp
nhận vẫn còn đồng trinh đang khi sinh con. Người Tin lành
chỉ có một số tin Đức Mẹ trọn đời đồng trinh. Tin lành
truyền thống, Mormons, nhân chứng Giêhôva, và nhiều nhóm khác,
chống đối sự kiện Đức Mẹ trọn đời đồng trinh vì
họ nghĩ họ có đủ lý lẽ không thể bài bác được. Nhưng
chúng ta dễ dàng dùng Kinh thánh, Giáo phụ, vàlý lẽ lương
tri để bênh vực học thuyết của Giáo hội công giáo: Đức
Maria trọn đời đồng trinh.
Trước hết, chúng ta sẽ đối phó với những câu Kinh thánh
người ta dùng để tấn công học thuyết vừa nêu:
1- Matthêu 13:55: “Và ngài chẳng phải con ông thợ
mộc đó ư? Và bà Maria chẳng phải mẹ Ngài, và anh em của
Ngài chẳng phải Giacôbê, Giuse, Ximong, và Giuđa sao?”
Trong thời cựu ước, cũng như thời nay, danh từ “anh em” có
rất nhiều kiểu dùng. Nó có thể biểu thị anh em, họ hàng,
bạn hữu hoặc người cộng sự. Trong Tông đồ công vụ, các
Ki-tô hữu đươc gọi là “anh em” (Tđcv 21:17) các lãnh đạo
Do thái cũng được gọi là “anh em” (Tđcv 22,1). Trong Sách Sáng
thế ký, (Stk: 14:14) Lot được gọi là “anh em” của
Ap-bra-am. Trong thực tế, Lot là cháu của Ap-bra-am. Vì lý do này
mà rất nhiều bản dịch kinh thánh ngày nay chỉ đơn thuần dùng
từ “cháu” thay vì “anh em”, vì từ ngữ “cháu” theo
tiếng Do thái có nghĩa là “anh em”. Để xác định quan hệ
“anh em” của Chúa Giê-su, chúng ta phải khảo sát thêm các
câu khác để có hình ảnh đầy đủ hơn. Matthêu 27:26 và
Matcô 15:10 cho biết hai người “anh em” này, đó là Giacobê
và Giuse, là con của bà Maria khác, chứ không phải Maria, mẹ
Chúa Giê-su. Chính thánh sử Gioan đã nói đích danh bà Maria này
là vợ của ông Clêôpha.
2- Matthêu 1: 24-25: “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như
lời sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà, nhưng ông không
ăn ở với bà cho đến khi Maria sinh con đầu lòng và ông đặt
tên cho con trẻ là Giêsu.”
Người Tin lành dựa vào câu này và đưa hai lý do tại sao Đức
Mẹ không trọn đời đồng trinh như sau: Thánh kinh nói ông Thánh
Giuse giữ mình không quan hệ nam nữ với Đức Mẹ cho đến
khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu. Chữ “cho đến” này chẳng ám
chỉ rằng sau khi sinh Chúa Giêsu thì Đức Mẹ lại chẳng quan
hệ nam nữ bình thường với Thánh Giuse đó ư? Chúng ta trả
lời: Không, vì chữ “cho đến” viết gọn lại bởi chữ
“cho đến khi” thật sự không cần thiết để ám chỉ
một sự thay đổi (trong việc giữ mình trinh khiết của Đức
Mẹ). Lấy ví dụ trong thư thứ nhất của Thánh Phaolô gửi tín
hữu Corinthô: “Đức Kitô cần phải cai trị “cho đến
khi” Thiên Chúa đặt mọi kẻ thù dưới chân Người.” Chúng
ta không thể nói sau khi Thiên Chúa đặt kẻ thù dưới chân
Người, Đức Kitô không còn cai trị. Trái lại Chúa Kitô cai
trị đời đời vô tận. (Luke 1:32-33).
Người Tin Lành còn nói rằng Chúa Giêsu được gọi là”Con
đầu lòng”, như vậy Đức Mẹ còn nhiều con khác. Đây là
sự hiểu lầm rất lớn. “Con đầu lòng” là từ luật
học trong ngôn ngữ Do thái để chỉ đặc quyền hoặc đẳng
cấp. Thánh vịnh 89:28 gọi David là “con đầu lòng” dù ông
là con thứ tám của Jessê (1 Samuel 16). Thư thánh Phaolô gửi tín
hưũ Colossê 1:15 gọi Chúa Giêsu là “trưởng tử của của
mọi loài thọ sinh” dù cho bao nhiêu kẻ đã sinh ra trước Chúa
Giêsu. Như vậy thánh Phaolô chỉ đơn giản nói rằng Chúa Giêsu
là nguyên thuỷ muôn loài muôn vật. Hãy nhớ rằng, luật
Cựu ước đòi các con trai đầu lòng phải được hiến dâng
cho Thiên Chúa và được chuộc lại sau khi sinh được 40 ngày
(Xuất hành 34:20), ngay cả khi bà mẹ chẳng biết mình còn có
những con khác hay không, bà ấy vẫn gọi đứa trẻ là “con
đầu lòng” của bà. Từ ngữ “con đầu lòng” trong Matthêu
1:25 không chứng minh Đức Mẹ còn có những con khác.
Chúng ta có thể trích những đoạn Kinh thánh sau đây để bênh
vực Đức Đồng trinh trọn đời của Đức Mẹ:
a- Matthêu 15 và Gioan 19:27: Trong đoạn 15 của Thánh Matthêu,
Chúa Giêsu cực lực lên án nhóm Pharisiêu vì họ dựa vào
truyền thống của tiền nhân, vì các ông ấy nêu khoản
luật Coban để dạy bảo người ta: “ai nói với cha mẹ mình
rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm
để dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính
mẹ nữa”. Chúa Giêsu giận dữ lên án luật Coban cho phép
những đứa con bỏ rơi không chăm sóc cha mẹ. Trở lại đoạn
Phúc âm Gioan 19: 26-27 với cảnh tượng dưới chân thập giá.
Chúa Giêsu biết mình sắp lìa bỏ thế gian. Đức Mẹ sẽ côi
cút một thân một mình. Rồi Chúa Giêsu trối Đức Mẹ cho Thánh
Gioan, con ông Giêbêđê không phải là em của Chúa. Nếu Chúa
Giêsu có những người em như Tin lành tuyên bố, thì hành động
trao phó Mẹ của Ngài cho Gioan qủa thực phi lý. Chính Chúa Giêsu
đã lên án nhóm Pharisiêu vì đã cho phép người ta bỏ việc
chăm sóc cha mẹ, tại sao Ngài lại miễn chước cho các em
của Ngài trong bổn phận quan trọng đó. Sự kiện tiền hậu
bất nhất ấy làm sao thuyết phục được?
b- Tông đồ công vụ 1: 13-14: Sau khi Chúa Giêsu lên
trời, các Tông đồ của Chúa tụ tập cầu nguyện cùng Đức
Mẹ, thánh Gioan tông đồ là người chăm sóc Đức Mẹ, một
số phụ nữ và các anh em Chúa Giêsu. Nếu những anh em này là
anh em ruột của Chúa, thì sự kiện Đức Mẹ cầu nguyện
chung với họ xong, không đi theo họ, mà lại theo Thánh Gioan
về nhà ông. Điều ấy, theo tập tục Do thái, không thể
xảy ra được.
Chúng ta hãy cẩn thận đọc và suy gẫm Thánh kinh để thấu
hiểu và bênh vực học thuyết của Giáo hội: Đức Maria không
có những người con khác bởi vì Đức Mẹ đồng trinh trọn
đời. Lần tới chúng ta cùng khảo sát những gì các giáo
phụ đã nói về niềm tin này, đồng thời chúng ta cũng tìm
hiểu nhóm Tin lành cải cách đã bênh vực niềm tin Đức Mẹ
trọn đời đồng trinh như thế nào.
LM Giuse Trần Xuân Lãm
VietCatholic News (04/11/2005)
|