Lễ Chúa Giêsu Kitô - Vua Vũ Trụ

Năm 1925, Ðức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập ngày lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền dạy Dân Chúa khắp nơi mừng lễ này vào Chúa nhật cuối cùng của tháng Mười. Trong một bản tông huấn, Ðức Thánh Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua: thế giới cần một nền hoà bình chân thật, nhưng hoà bình đó chỉ có được dưới triều đại của Ðức Kitô là Vua Tình Thương và là Hoàng Tử Bình An.

Về sau, khi có cuộc cải cách phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu lại trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, tức Chúa nhật thứ 34, trước khi bước vào mùa Vọng, khởi đầu một chu kỳ mới. 


Một linh mục đã nhận xét: Suy tôn Chúa Giêsu Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng và mang nhiều ý nghĩa, vì quả thực, Ngài đã chào đời như một quân vương và lìa đời như một đức vua.

Nhớ lại ngày Ðức Giêsu sinh ra tại Bêlem, ba đạo sĩ phương Ðông đã tìm đến dâng các lễ vật: vàng, nhũ hương, và mộc dược. Vàng là món quà tượng trưng cho vương quyền. Thế nên, từ thuở ấu thơ, Ngài đã được nhìn nhận như một đức vua. Và rồi, trong những giờ phút cuối cùng của cuộc sống làm người, Ðức Giêsu cũng được suy tôn như một vị quốc vương cao cả.

Thói thường khi quân Rôma đóng đinh ai cũng đều kèm theo một tấm bảng ghi rõ tội danh của kẻ phạm pháp. Riêng trường hợp Ðức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo người Do thái bằng cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ "Ðây là Vua Dân Do thái." Việc làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực sự của Ðức Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là hoàng đế (x. Thomas Kemp, Homilies on the Sunday Gospel).

Việc làm vô tình của Philatô lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên xưng. Số là trên đồi Gôlgotha lúc bấy giờ có hai tên trộm cướp cùng chịu đóng đinh với Ðức Giêsu. Các thủ lãnh và đoàn thể dân chúng cười nhạo Ngài. Quân lính thì mắng nhiếc chế diễu. Cả một trong hai tên gian phi cũng khiêu khích sỉ nhục. Trong mớ âm thanh hỗn độn, hằn học, và thù nghịch ấy lại dội lên một vài ngôn từ đáng suy nghĩ.

Ngay trên khổ giá của mình, người gian phi thứ hai đã quan sát Ðức Giêsu và suy nghĩ về những ngôn từ đó. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những câu như: "Nếu là Ðức Kitô," "Nếu là Ðấng Thiên Chúa tuyển chọn," "Nếu là Vua Do thái." Anh ta ngước nhìn và đợi chờ những lời nguyền rủa đáp trả hay những tia nhìn hận thù giáng xuống đoàn lũ dưới kia. Thế nhưng, những gì anh thấy được lại là "Ðức Giêsu ngước mắt lên trời," và những gì anh nghe được lại là "Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm."

Chính việc "thấy" và "nghe" kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: "Ông này đâu có làm gì sai trái" (Lc 23:41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: "Lạy Ðức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài" (Lc 23:42).

Làm sao trong cảnh hấp hối tột cùng của Ðức Giêsu và của chính mình mà anh "trộm lành" lại cất lên được lời thỉnh cầu như thế? Phải chăng khi rơi vào vòng xoáy của sự chết, anh đã cố bám víu bất cứ thứ gì có thể bám được? Ðiều gì đã giúp anh, ngay giữa lằn ranh của sự sống và sự chết, gặp thấy dung mạo của một quốc vương, Ðấng đang bước vào vương quốc của mình ngay trên thập giá?

Một nhà thần học trả lời: tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng yêu người, xót thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình Yêu.

Mà tình yêu sẽ tồn tại muôn đời, anh xác tín như thế. Cho nên, dù vật vã với đớn đau của thân xác, anh vẫn nhận ra tình yêu đang hiện hữu bên mình. Tình yêu đó đang rộng lòng tha thứ, xoá tan hận thù, và mang lại bình an. Niềm xác tín gia tăng cường độ khiến miệng anh bật lên lời nài van: "Xin Ngài nhớ đến tôi."

"Ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta" (Lc 23:43). Không lời nào yên ủi cho người sắp chết bằng lời đó. Hận thù đã gây nên chiến tranh, phân ly. Nhưng tình thương lại luôn bắt cầu liên kết. Anh trộm lành chỉ xin Chúa Giêsu "nhớ" đến mình, nhưng Ngài lại hứa ở cùng anh. Nói đến nhớ là nói đến cách xa. Vì yêu nhau nhưng không được gần nhau nên sinh ra nỗi nhớ. Tình yêu có nỗi nhớ là tình yêu chưa được vuông tròn. Còn khi "ở làm một với nhau" thì tình yêu đã thật sự lên ngôi. Trong tình yêu của Thiên Chúa luôn là "nên một" và "ở cùng."

Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Ðức Kitô, Người Thiên Chúa tuyển chọn, Ðấng Cứu Thế, Vua Tình yêu.

Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, nài xin Ngài "nhớ" đến mình trên mọi hành trình dương thế, can đảm bênh vực cho chân lý tình yêu, là ta đang tìm thấy hoà bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, và thế giới.

Lm Giuse Bùi Quang Tuấn, C.S.s.r.