Thánh Giáo Hoàng Piô X, vị đại thánh của phép Thánh Thể

Trong lần bầu Giáo Hoàng vào mùa hè năm 1908, khi nhận thấy các Đức Hồng Y có mặt trong cơ mật viện cứ từ từ dồn phiếu cho mình mỗi lúc mỗi tăng lên, ĐHY Giuseppe Sarto, Thượng Phụ thành Venise/Ý, với thái độ đầy run sợ đã khẩn khoản xin các Đức Hồng Y trong cơ mật viện: «Tôi bất lực và không xứng đáng. Xin các Đức Hồng Y hãy quên tôi đi!» Cuối cùng 50 trong số 62 vị Hồng Y trong cơ mật viện đã bỏ phiếu bầu ngài làm Giáo Hoàng. Khi nhận rõ được ý Chúa muốn ngài gánh vác trách nhiệm của Giáo Hội, ĐHY Giuseppe Sarto đã nói với cơ mật viện: «Xin quý Chư Huynh hãy giúp đỡ tôi. Tôi thành khẩn xin quý Chư Huynh hãy giúp đỡ tôi!» Đức Giáo Hoàng X là một trong những vị đại Giáo Hoàng đã canh tân Giáo Hội nhiều nhất, đúng với khẩu hiệu của ngài đã chọn khi lên ngôi Giáo Hoàng: «Đổi mới tất cả trong Đức Kitô.»

Thánh Giáo Hoàng Piô XGiuseppe Sarto sinh năm 1835 tại làng quê Riese. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm mười anh chị em. Thân phụ ngài là một nông dân nghèo và đồng thời kiêm thêm nghề đưa thư. Ngay khi còn nhỏ, cũng giống như cha mẹ ngài, ngài rất đạo đức và luôn ước ao được làm Linh Muc. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh kinh tế của gia đình quá eo hẹp thiếu thốn, ước muốn thánh thiện đó hầu như chỉ là một giấc mơ bất thành mà thôi.

Tuy nhiên, khi được mười một tuổi, Beppo - cái tên người ta thường gọi ngài - hằng ngày phải đi bộ bảy cây số đến học tại trường La-tinh ở Castelfranco hầu để kết thúc được chương trình trung học phổ thông và để theo học triết và thần học, mãi cho tới khi ngài được nhận vào Chủng Viện ở Padua.

Một vị Linh Mục năng nổ, thánh thiện

Vào năm 1858, thầy Giuseppe Sarto được thụ phong Linh Mục ở Castelfranco. Là một Linh Mục hăng hái và có lòng đạo đức sâu xa, trước hết cha Giuseppe Sarto làm Phó xứ tại Tombolo và rồi làm cha Quản xứ tại Salzano. Ngay khi ngài còn là Phó xứ, người ta đã ghi nhận như sau: «Mỗi buổi sáng, ngài thức dậy rất sớm và mở cửa nhà thờ, vì ngài không muốn làm phiền đến ông từ. Ngài đọc Kinh Nhật Tụng và chầu Thánh Thể. Sau đó ngài tiến lên bàn thờ dâng Thánh Lễ với lòng đầy vui tươi phấn khởi. Suốt giờ cử hành Thánh Lễ, tâm hồn ngài chìm sâu vào chiêm niệm hầu như ngài đã quên hết thế gian.» Một tín hữu trong họ đạo của ngài đã đơn sơ chân thành nói: «Nhìn cha Sarto dâng lễ, con cứ tưởng như mình đã được nhìn thấy Chúa Giêsu đang đứng trên bàn thờ vậy.»


Sarto's family house - Pope Pius X's birth placeCông việc chính trong ngày của ngài chỉ quanh quẩn từ bàn thờ đến toà giảng và toà giải tội. Sau đó, ngài được đề cử làm cha quản xứ Salzano. 

Đức Giám Mục (Zinelli de Treviso) đã phê nhận về cha Sarto sau chuyến kinh lý giáo xứ Salzano của ngài như sau: «Trong giáo xứ bao trùm một bầu không khí thật đạo đức sốt sắng. Toàn thể giáo dân đều một lòng với cha quản xứ. Việc đón nhận các bí tích rất hồ hởi, số người rước lễ rất cao. Các trẻ em trong giáo xứ được dạy dỗ giáo lý rất chu đáo cẩn thận. Còn tất cả những gì liên quan đến Thánh Lễ thì hoàn toàn không thể chê vào đâu được cả.»  

Sau đó, cha Sarto được đề cử làm cha quản xứ nhà thờ chính tòa, cha Tổng đại diện và làm giáo sư tại Đại Chủng Viện Treviso.

Một Giám Mục gương mẫu

Sau 5 năm liền làm cha Tổng Đại Diện ở Treviso, ĐTC Lêô XIII tấn phong cha Sarto làm Giám Mục Mantua vào năm 1884. Đức Cha Sarto điều khiển giáo phận Mantua mãi cho tới năm 1893. Trong một lá thư luân lưu gửi các giáo xứ, Đức Cha viết là ở đây «các nhà thờ thì giá lạnh hoang tàn, các bàn thờ bị bỏ không, các toà giảng thì câm nín và các toà giải tội thì trống rỗng, bởi vì thiếu các Linh Mục để đảm nhận những công việc cao cả đó.»

Để cải thiện tình trạng các giáo xứ, nhất là để tìm phương cách cổ vũ và làm sống lại ơn gọi Linh Mục đang thiếu thốn trầm trọng, Đức Cha Sarto đã triệu tập một Công nghị giáo phận. Chương trình chầu và tôn thờ Mình Thánh Chúa là trọng tâm mà Đức Cha muốn đặt lên hàng đầu trong công cuộc cải thiện tình trạng của giáo phận. Vì thế, Đức Cha Sartô đã cho đặt Mình Thánh Chúa trên bàn thờ và ngài cùng với toàn thể các Linh Mục chầu suốt một tiếng đồng hồ liền.

Vào năm 1893, Đức Cha Sarto được bầu làm Thượng Phụ thành Venise. Hai năm sau đó xảy ra tại Venise một sự cố xúc phạm đến Mình Thánh Chúa một cách nặng nề. Số là có kẻ gian phi đã vào nhà thờ ăn trộm chén đựng Mình Thánh Chúa trong Nhà Tạm và mang cả Mình Thánh Chúa ra đổ khắp nơi ngoài đường đi lại. Đức Thượng Phụ Sarto đã kêu mời tất cả mọi tín hữu trong giáo phận làm việc đền bù phạt tạ tội phạm thánh công khai như thế và lời kêu gọi của ngài đã được mọi tín hữu khắp nơi hưởng ứng nồng nhiệt.

Tiếp đến, để mọi người sống đức tin Kitô giáo trong cuộc sống cụ thể hằng ngày của mình, Đức Thượng Phụ Sarto đã khuyến khích mọi người hãy siêng năng tham dự Thánh Lễ. Bởi vậy, vào năm 1896, ngài đã tổ chức đại hội Thánh Thể toàn giáo phận tại Venise. Và để ca tụng Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể và để phạt tạ những tội lỗi nhân loại đã xúc phạm đến Bí tích Tình Yêu này, chính ngài đã giảng lễ và diễn giải về mầu nhiệm Thánh Thể một cách hùng hồn và đầy ấn tượng. Từ đó hàng đoàn ngũ các tín hữu đã đáp lại lời kêu mời của ngài và đã đi tham dự Thánh Lễ rất đông. Tại các giáo xứ các tín hữu còn tổ chức chầu Mình Thánh suốt cả đêm ngày nữa.

Một vị Giáo Hoàng canh tân Giáo Hội

Mười năm sau đó, vào ngày 4/8/1903, Đức Thượng Phụ Venise đã được bầu làm Giáo Hoàng. Thoạt đầu ngài đã từ chối, nhưng rồi liền sau đó ngài đã nhận ra được thánh ý Chúa và đã chấp nhận. Vì đầy lòng tin tưởng phó thác vào lời chuyển cầu của các thánh Giáo Hoàng đã mang tên Piô trước ngài mà ngài rất sùng kính, tân Giáo Hoàng Giuseppe Sarto đã chọn biệt hiệu là Piô X.

Ngay từ đầu, ĐGH Piô X đã quan tâm một cách đặc biệt đến chương trình mục vụ trong Giáo Hội. Ngài tìm cách quân bình giữa thề giới tân tiến và truyền thống Kitô giáo. Nhưng trước hết, ngài chăm lo đến việc canh tân nội bô Giáo Hội, đúng với khẩu hiệu của ngài chọn khi lên ngôi Giáo Hoàng là: «Đổi mới tất cả trong Đức Kitô.» Vì thế, Ngài đã ban hành lệnh:

• tu sửa lại bộ Giáo Luật,

• lo cho việc cử hành các lễ nghi Phụng vụ và thánh nhạc một cách thật xứng đáng, hầu «để thức tỉnh lòng đạo đức sốt sắng của các tín hữu và làm cho họ bớt căng thẳng trong khi cầu nguyện.»

• để làm sống động lại việc nghiên cứu Kinh Thánh, Ngài đã cho thiết lập ở Roma học viện Kinh Thánh,

• canh tân thánh nhạc Gregoriana, Sách Lễ, lịch Phụng vụ, sách Nhật Tụng của các giáo sĩ, v.v…

Để chống lại những trào lưu tối tân hóa quá khích và những kẻ chủ trương chúng, Đức Piô X đã có những biện pháp hết sức nghiêm nhặt đề phòng, vì thế đã dẫn tới những vụ tố cáo trong nội bộ Giáo Hội và gây ra sự bất an rộng lớn.

Nhưng điều Đức Piô X hằng hết lòng mong muốn là việc thánh hoá hàng Linh Mục. Theo ngài, trước hết các Linh Mục phải lo sống thế nào để có được Đức Kitô trong chính mình, nếu họ muốn mang Người đến cho những kẻ khác. Đức Piô X đã ban hành hai sắc lệnh quan trọng về việc rước lễ là «Sancta Tridentina Synodus»«Quam singulari Christus amore». Một điều hết sức mới mẻ ở đây là Đức Piô X đã ban phép cho các trẻ em dưới mười tuổi cũng được rước lễ, nếu các em biết phân biệt được Mình Thánh Chúa và bánh ăn bình thường, đúng như ý kiến thánh Thomas Aquinô. Vì từ trước cho tới lúc bấy giờ chỉ những trẻ em từ 12 hay 14 tuổi trở lên mới được rước lễ. Nhưng bây giờ các trẻ em từ 7 hay 8 tuổi cũng có thể được phép rước lễ.

Đức Piô X luôn xác tín rằng qua việc rước lễ hằng ngày, chúng ta được tiếp rước Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể, chúng ta sẽ được củng cố, được thêm sức mạnh và lòng dũng cảm để cùng Người chiến thắng được cuộc sống đầy căm go thử thách này. Vì trước đó từng có những trào lưu và quan niệm cho rằng các tín hữu chỉ mỗi tháng hay mỗi năm mới được phép rước lễ một lần mà thôi. Nhưng Đức Piô X lại muốn cộng đồng Dân Chúa phải trở thành cộng đồng Thánh Thể. Ngài viết:

«Là những Linh Mục của Chúa, chúng ta cần phải giới thiệu Đức Kitô cho mọi người và hành động trong tinh thần của Người. Là bạn hữu nghĩa thiết của Người, chúng ta ‘phải có những tâm tình như Đức Kitô’ (Pl 2,5), Đấng hoàn toàn thánh thiện, vô tội và tinh tuyền. Bởi vì tình bạn luôn đòi hỏi phải cùng ước muốn hay không ước muốn như nhau.»

Mặc dù Đức Piô X không phải là một nhà khoa học hay chính trị gia, nhưng ngài hết lòng quan tâm đến những lãnh vực đó với tất cả tâm tình của một vị linh hướng không hề biết mỏi mệt, bắt đầu từ khi còn là một Linh Mục phó xứ cho tới ngày cuối cùng trên cương vị Giáo Hoàng. Ngài hiểu rõ ngôn ngữ của đại chúng. Các bài giảng của ngài luôn đơn sơ, rõ ràng và dễ hiểu đối với hết mọi người, bởi vì những lời ngài nói đều phát ra tự đáy lòng chân thành của ngài. Điều băn khoăn lo lắng nhất của Đức Piô X là phải dạy dỗ các tín hữu thế nào để họ luôn biết siêng năng sốt sắng tham dự các Thánh Lễ. Và mỗi người đang trong tình trạng có ơn nghĩa với Chúa, thì được phép lên rước Mình Thánh.

Tính chất cao cả của con người Đức Piô X được tỏ hiện qua sự đơn sơ chân thành, lòng khiêm tốn, tình yêu không hề mỏi mệt, lòng nhân hậu và tính thích vui đùa của ngài.

Đức Piô X qua đời ngày 20/8/1914, chỉ vài tuần sau khi trận thế giới chiến thứ nhất bùng nổ. Trước khi chết, ngài đã bày tỏ ý muốn là không được ướp xác ngài. Trong dịp phong chân phước cho ngài, người ta đã cải táng mộ ngài và nhận thấy xác ngài vẫn nguyên vẹn, chứ không hề bị rữa nát.

Đức Giáo Hoàng Piô XII đã phong chân phước cho ngài vào ngày 3/6/1951 và sau đó ba năm lại phong ngài lên bậc hiển thánh vào ngày 29/5/1954. Theo lịch Phụng vụ, lễ kính thánh Giáo Hoàng Piô X được cử hành vào ngày 21 tháng 8 hằng năm.

Lạy thánh Giáo Hoàng Piô X, xin bầu cử cho chúng con được ơn biết yêu mến và tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể. Amen.

LM Gioan Bosco Nguyễn Hữu Thy
VietCatholic News