Thánh Giuse hay làm phép lạ
1. Thánh nữ Têrêsa Avila
: Tự truyện : "Thấy mình
còn trẻ mà bị bất toại, lại thấy tình trạng đáng
buồn do các y sĩ trần gian đưa đẩy tôi vào, tôi quyết
định chạy đến cùng các y sĩ trên trời để được
khỏi bệnh … Tôi nhận Thánh Giuse vinh hiển làm Ðấng
bàu chữa và bảo hộ tôi. Tôi cậy nhờ Người cách
rất thiết tha. Ơn cứu giúp của Người nổi bật nhãn
tiền. Ðấng bảo hộ và Cha hiền của linh hồn tôi đã
cứu tôi khỏi bệnh tật suy tàn về thân xác, cũng như
Người đã giải thoát tôi khỏi những hiểm nguy trầm
trọng hơn về mặt khác, có thể làm hại hạnh phúc
đời đời của tôi. Tôi nhớ rõ, chưa bao giờ tôi
cầu xin sự gì cùng Thánh Cả Giuse mà không được như
ý. Kỳ diệu thay, những ơn đặc biệt mà Thiên Chúa
đã ban đầy tràn cho tôi, và đã giải thoát tôi khỏi
mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác, do lời cầu
bàu của Vị Thánh vinh phúc này".
"Dường như Ðấng Tối Cao ban ơn cho các thánh giúp
chúng ta việc này việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết
thì Thánh Giuse vinh hiển có quyền năng rộng rãi giúp
chúng ta trong mọi việc. Như thế là Chúa muốn cho chúng
ta hiểu rằng, như xưa Chúa đã vâng phục Thánh Cả
dưới thế, đã nhìn nhận Người với quyền làm cha và
làm giám quản, thì nay ở trên trời, Chúa cũng sẵn
lòng chiều theo ý muốn của Người, mà nhận mọi lời
Người cầu xin. Những người khác mà tôi khuyên chạy
đến cùng Vị Bảo Hộ này, cũng nhận thấy điều ấy như
tôi, do kinh nghiệm. Vậy nên số các linh hồn sùng kính
Thánh Cả Giuse ngày càng gia tăng, và những hiệu quả
tốt lành do sự chuyển cầu của Thánh Cả ngày càng
xác nhận lời tôi nói là sự thật ..."
"Qua kinh nghiệm lâu dài như vậy, ngày nay được
biết rõ uy thế rất lạ lùng của Thánh Giuse trước toà
Thiên Chúa, tôi muốn thuyết phục mọi người tôn kính
sùng mộ Thánh Cả Giuse cách đặc biệt. Cho đến nay tôi
vẫn thấy những ai có lòng sùng kính Người đích thực
và chứng tỏ bằng việc làm, họ điều tiến tới trên
đường nhân đức, vì Ðấng Thánh Bảo Hộ trên trời
hằng giúp đỡ rõ rệt về đường tiến đức cho
những ai cậy nhờ Người. Ðã từ nhiều năm nay, cứ
ngày lễ kính Thánh Giuse, tôi vẫn xin Người một ơn
đặc biệt, và tôi luôn được toại nguyện. Khi nào
lời cầu nguyện của tôi có điều gì chưa toàn hảo theo
mục đích sáng danh Chúa, thì Người điều chỉnh lại cho,
để giúp tôi rút được lợi ích lớn lao hơn. Nếu
tôi có quyền viết, tôi sẵn lòng thuật lại trong một
ký thuật tỉ mỉ, những ơn mà biết bao người cũng như
tôi đã thụ lãnh ở nơi Thánh Cả Giuse. Nhưng để
không ra ngoài phạm vi mà đức vâng lời đã chỉ định
cho tôi, có việc tôi buộc lòng chỉ lướt qua, còn việc
khác có lẽ tôi hơi dài dòng, vì tôi quá vụng về
không biết giữ đúng giới hạn của sự kín đáo trong
việc lành. Vậy tôi chỉ còn biết, vì lòng mến Chúa,
nài xin những ai không tin lời tôi, hãy thử mà cậy
nhờ, cầu khẩn Thánh Tổ Phụ Giuse vinh hiển và nhiệt
thành tôn sùng kính mến Người, là điều ơn ích
dường nào !
Nhất là những người nguyện ngắm, càng phải luôn
luôn kính mến Người với hết tình con thảo. Tôi không
hiểu sao người ta có thể nghĩ đến Ðức Trinh Vương
Các Thiên Thần và nhớ lại mọi khổ cực Người đã
phải chịu trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu, mà người
ta lại không cám ơn Thánh Cả Giuse. Vì Người đã cứu
giúp Mẹ Con Chúa cách tận tình và hoàn hảo đến thế !
Ai không tìm được thầy dạy dỗ cách nguyện ngắm, xin
hãy chọn Vị Thánh Cả tuyệt diệu này làm thầy ; và
dưới sự dìu dắt của Người, họ sẽ chẳng sợ lầm
lạc, khi tôi đã táo bạo dám nói về Người. Tôi
công khai biểu lộ lòng sùng kính đặc biết đối với
Người, điều ấy rất thật đó, nhưng về các công
việc để làm vinh danh Người, và việc bắt chước các
nhân đức Người, thì tôi còn thua kém lắm. Vậy mà
Người đã làm chói rạng nơi tôi quyền năng và lòng
nhân từ của Người, nhờ Người, tôi đã cảm thấy
sức lực phục hồi, tôi đứng dậy, tôi đi, tôi không
còn bất toại nữa".
Một vinh quang trong sứ mạng của Thánh Nữ Têrêsa theo
ơn Chúa Quan Phòng cho những thế kỷ gần đây, là đã
phổ biến việc sùng kính Thánh Cả Giuse trong toàn thể
Giáo Hội Công Giáo.
Tác giả lừng danh Patrignant đã viết : "Thánh nữ
Têrêsa là một trong những ngôi sao sáng ngời nhất,
một trong những kim cương mỹ lệ nhất nơi triều thiên
Thánh Cả Giuse. Bà đã được Thiên Chúa chọn để
truyền bá việc tôn sùng Thánh Cả Giuse trong khắp thế
giới, và để đặt bàn tay cuối cùng, nếu có thể nói
như thế, vào công cuộc lớn lao này" (Dévot à Saint
Joseph, q.I, ch.XI).
Nhà thờ của Ðan viện cải cách đầu tiên do Bà lập
được dâng kính Thánh Giuse. Trong 17 Ðan viện Bà lập sau
Ðan viện Avila, thì 12 Ðan viện được dâng kính Thánh Tổ
Phụ, nhưng Bà đưa việc tôn sùng Thánh Giuse vào tất
cả mọi Ðan viện. Bà trao phó hết cho Thánh Giuse bảo
hộ, Bà luôn luôn đặt tượng Vị Thánh trên cửa vào
tu viện. Hơn nữa người ta được đọc trong một hồ sơ
pháp lý để phong thánh cho Bà : "Bà tự tay đặt
ở cửa vào mỗi tu viện một bức ảnh Ðức Mẹ và
Thánh Giuse trốn sang Ai cập với lời ghi : Pauperem vitam
gerimus, sed multa bona habebimus, si timuorimus Deum : Chúng ta sống
khó nghèo, nhưng chúng ta sẽ được tài sản lớn, nếu
chúng ta kính sợ Thiên Chúa (Tb 4,23). Trong một khuyến
cáo Bà nói : "Mặc dù các chị em tôn kính nhiều vị
thánh làm bổn mạng, nhưng chị em hãy có lòng đặc biệt
đối với Thánh Cả Giuse, vì Người có quyền thế rất
lớn trước toà Thiên Chúa" (Avis, LXV).
Thánh Nữ Têrêsa đã trối lại cho toàn thể Dòng của
Bà một lòng nhiệt thành, hăng say làm vinh danh Thánh Cả
Giuse. Theo gương Bà, Dòng Cát Minh không ngừng hoạt
động phổ biến việc tôn sùng Thánh Tổ Phụ, và
người ta có thể nói là Dòng Cát Minh cải cách thi đua
nhiệt thành với Dòng Cát Minh cựu thời, đã được
Ðức Giáo hoàng Bênêđíctô XIV khen ngợi như sau :
"Theo ý kiến các nhà thông hiểu, chính Dòng này
đã đưa từ Phương Ðông sang Phương Tây tập tục đáng
khen ngợi là tôn kính Thánh Cả Giuse bằng việc kính long
trọng nhất".
Ðến cuối thế kỷ XVII, nguyên trong dòng Cát Minh người
ta đã đếm được 150 nhà thờ mang thánh hiệu Giuse.
(Phạm Ðình Khiêm, Thánh Giuse Tuyệt Diệu, trang 44-48)
Thánh nữ, một nhà chiêm nghiệm sâu xa và là một nhà
năng động hiếm có, là một người rất có lòng sùng
kính Thánh Cả Giuse. Lòng sùng kính ấy, cũng như Thánh
Bênađô, Bà đã được trong một thị kiến. Bà tự
thuật : "Ngày lễ Mông Triệu, tôi được xuất thần
như ra khỏi tôi … Tôi được mặc một chiếc áo thật
trắng và chói sáng. Thoạt đầu tôi không biết ai đã
mặc cho tôi. Nhưng rồi, tôi thấy Ðức Mẹ ở bên hữu
và Cha tôi, Thánh Giuse, ở bên tả đã mặc cho tôi. Và
tôi được nghe : từ đây tôi được rửa sạch mọi
tội lỗi của tôi. Sau việc mặc áo, tôi cảm thấy đầy
hạnh phúc và sung sướng, và tôi thấy Ðức Mẹ cầm
tay tôi và nói : "Mẹ rất vui thích khi thấy con tôn
sùng Thánh Cả Giuse vinh hiển. Tôi có thể tin rằng ý
định lập dòng của tôi sẽ thành tựu. Chúa Kitô và
Hai Ðấng sẽ được tôn vinh..." (Hồng Phúc, Thánh
Cả Giuse, Cali, Hoa Kỳ, 1996, trang 98).
2. Thầy Anrê và nguyện đường Mont Royal, Montréal, Canada :
Trung tâm quốc tế sùng kính Thánh Giuse là ở Montréal,
Canada trong "nguyện đường Mont Royal". Nguyện
đường ấy là một vương cung thánh đường vĩ đại,
hằng năm thu hút khoảng 2 triệu khách hành hương. Ðó
là một công cuộc của một thầy Dòng hèn mọn, thầy
Anrê, mà Ðức Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước
ngày 23-5-1982. Thầy Anrê chính là một thách đố đối
với sự khôn ngoan trần thế. Ngài không có sức khỏe
thì lại sống đến 91 tuổi. Ngài ít học, chỉ biết ký
tên, để trả lời 80.000 bức thư mỗi năm, phải dùng 4
thư ký. Ngài không được ai biết thì mỗi ngày phải
tiếp trung bình từ 2 đến 300 người khách. Ngài là một
tu sĩ rất nghèo lại xây dựng được một ngôi thánh
đường lớn nhất thế giới dâng kính Thánh Giuse.
Alfred Bissette sinh hạ tại Québec ngày 9-8-1845, thứ tám
trong một gia đình 12 anh em. Mồ côi cha mẹ sớm, Alfred
phải trải qua nhiều đói khổ và bệnh tật, làm bánh
mì, làm thợ giày, thợ rèn, lại mắc bệnh yếu bao tử
không làm được việc nặng mà Alfred phải mang suốt
đời. Ðiều làm cho anh vượt thắng là sự cậy trông
vào Chúa quan phòng và Thánh Cả Giuse.
Lúc lên 25 tuổi, Alfred được nhận vào tập viện Dòng
Thánh Giá, trước đây gọi là Dòng Sư Huynh Thánh Giuse
và mang tên Anrê. Thầy Anrê làm thầy gác cửa của
trường trung học Ðức Bà ở Montréal. Mặc dù bị bệnh
bao tử hành, thầy vẫn tỏ ra vui vẻ và tiếp đón mọi
người, nghe họ tâm sự, từ học sinh đến phụ huynh cha
mẹ. Anrê lắng nghe, an ủi, cầu nguyện và khuyến khích
cầu nguyện.
Người có biệt tài nói đến Thánh Cả Giuse và xin mọi
người cầu nguyện với Thánh Nhân trong mọi thử thách
phần hồn phần xác. Người dùng ảnh vảy Thánh Giuse
chà sát lên vết thương hay thoa dầu đã được đốt
trước tượng Thánh Cả. Vết thương lành và tâm hồn
trở lại. Bệnh nhân ùn ùn kéo đến làm xáo trộn
trật tự của trường... cần phải chấm dứt. Bề trên
xin thầy phải rút lui không được tiếp ai cả. Thầy
tuân lệnh, nhưng vẫn ôm mộng làm được gì lớn lao cho
Thánh Cả và các bạn bệnh nhân.
Trước mặt trường trung học là quả đồi gọi là đồi
Mont Royal. Thầy Anrê ước mơ xây ở đó một nguyện
đường kính Thánh Giuse. Người lên đồi, cầu nguyện
suốt nhiều đêm và đem ảnh vảy Thánh Giuse rải khắp
nơi. Thánh Cả bắt đầu làm việc. Một lô đất được
mãi tậu, một tượng Thánh Giuse được dựng lên và
một nguyện đường được khởi công ... Nhưng không bao
lâu trở nên bé nhỏ trước hàng trăm ngàn người
đến kính viếng và câu xin ơn Thánh Cả.
Với thầy Anrê, không có gì là quá lớn đối với
Thánh Giuse. Một đại thánh đường được khởi công.
Thầy Anrê có một phòng nhỏ sát cạnh vương cung thánh
đường mà Người chỉ gọi là "Nhà nguyện Thánh
Giuse". Người cầu nguyện và giúp người ta cầu
nguyện. Mỗi ngày Người giúp lễ, viếng Thánh Thể, tổ
chức lần hạt mân côi, đi đàng Thánh Giá. Buổi chiều
Người xuống phố đi thăm bệnh nhân không thể lên
thánh đường và kết thúc bằng việc chầu Thánh Thể.
Thầy Anrê qua đời ngày 6-1-1937 hưởng thọ 91 tuổi. Mặc
dầu trời băng tuyết, hơn một triệu người đã đi qua
trước linh cũu.
Vương cung thánh đường vẫn mang tên là "Nguyện
đường" để ghi nhớ sự khiêm tốn của buổi đầu.
Nhưng có đủ mọi dịch vụ của một trung tâm hành hương
lớn, dịch vụ tiếp đón, dịch vụ thiêng liêng. Nhất là
ở đây còn có một trung tâm đại kết và "Giuse
Học", các nhà thần học hội họp và nghiên cứu
về tu đức theo đường hướng cuộc sống của Thánh
Giuse.
Ngày 11-9-1982 trong cuộc công du viếng thăm Canada, Ðức
Gioan Phaolô II đã đến kính viếng "Nguyện đường
Thánh Giuse", và ngôi mộ chân phước Anrê nằm sau
bàn thờ chính.
Câu chuyện "Nguyện đường Thánh Giuse" như một
câu chuyện thần tiên, khai sinh và triển nở cách lạ
lùng. "Không gì là bé nhỏ đối với Thánh Cả
Giuse" quả đúng như lời Người đã nói (Hồng
Phúc, Sđd, trang 109-112).
3. Thánh Giuse Cotignac : ở tại Cotignac, miền Nam nước
Pháp, có những ngôi thánh đường cổ xưa và kỳ lạ
dâng kính Ðức Mẹ và Thánh Giuse, lôi kéo rất nhiều du
khách hành hương. Ba giai đoạn hành hương tiếp diễn.
Giai đoạn đầu : xảy ra ngày 10-8-1519. Hôm ấy trời rất
oi bức trong đám rừng thông núi Verdaille ở Cotignac gần
Frejus. Ông Jean de la Baume, sợ hoả hoạn, đã quyết định
đốn hạ cây làm củi. Là một Kitô hữu đạo đức,
trước khi bắt tay vào việc, ông quỳ gối nguyện kinh.
Nhưng khi đứng lên, ông thấy một ánh sáng lạ xuất
hiện bên cạnh, một ánh sáng chói chang đến độ át
hẳn ánh sáng mặt trời hôm ấy. Trong bầu ánh sáng
ông nhận ra nhiều Ðấng vị vọng. Phản ứng đầu tiên
của ông là bỏ chạy vì không biết điều gì sẽ xảy ra,
thì ông nhìn thấy Ðức Mẹ ẵm Chúa Hài Ðồng trên tay.
Ðức Mẹ nói : "Ta là Trinh Nữ Maria, hãy đi nói
với các giáo sĩ và các vị chấp chánh ở Cotignac phải
xây cất ở đây một nhà thờ mang tên là "Nhà
Thờ Ðức Mẹ Ban Ơn". Hãy đến tổ chức rước
kiệu để hưởng nhờ các ơn huệ mà Ta sẽ ban …".
Ông Jean de la Baume sửng sốt … xây một nhà thờ …
trong cánh rừng thông ! Bên cạnh Ðức Mẹ lại còn có
Thánh Micae, Thánh Nữ Catarina Alexandria ... Rồi tất cả như
tan biến trong ánh sáng huy hoàng của mặt trời. Ông Jean
không nói với một ai về câu chuyện bất ngờ ấy khi
chiều tối ông trở về.
Hôm sau, ông trở lại lên khu rừng thông đốn củi và
cảnh tượng lạ lại xảy ra. Ông trở về làng kể lại
câu chuyện. Dân làng quyết định làm theo lệnh trời ban.
Ngôi nhà thờ mọc lên, cuộc hành hương khởi đầu và
lớn dần. Ngày 6-5-1628 Ðức Giáo hoàng Urbanô VIII giảng
thuyết : "Tại Cotignac trong Giáo phận Frejus, có ngôi
thánh đường nổi tiếng dâng kính Ðức Trinh Nữ Maria,
gọi là Ðức Mẹ Ban Ơn, vì những phép lạ cả thể mà
Thiên Chúa đã làm ở đó, các giáo dân, vì lòng
biết ơn và sùng kính, đã chạy đến từ khắp thế
giới".
Giai đoạn hai : liên hệ đến lịch sử nước Pháp, nhất
là vua Louis XIII và lời khấn dâng nước Pháp cho Mẹ.
Hồi ấy có một thầy dòng tên là Fiacre de Sainte
Marguerite. Ngoài đời thầy mang tên là Denis Antheuame. Thầy
rất sốt sắng, sau buổi kinh đêm, thầy còn thức khuya
cầu nguyện. Thầy lâm bệnh nặng và được đưa vào
bệnh xá của dòng. Thầy chỉ sợ một điều là thêm
gánh nặng cho nhà dòng. Thầy y tá trả lời :
"Ðừng lo, Bà hoàng hậu chúng ta Anna Áo quốc (Anne d’Autriche)
hay đến đây và giúp chúng ta nhiều để nhà chúng ta
cầu nguyện hãm mình xin cho bà được một đứa con nối
ngôi báu nước Pháp". Thầy biết nước Pháp đang
cần có hoàng tử nối ngôi. Thầy liền cầu nguyện và
ngày 28-10-1637 Ðức Mẹ hiện ra với Thầy và cho biết
hoàng hậu Áo quốc sẽ sinh hạ một hoàng tử, nhưng
trước đó bà phải làm ba tuần cửu nhật, một kính
Ðức Mẹ Cotignac, một kính Ðức Bà Paris và một kính
Ðức Bà Thắng Trận. Vì sao lại ba ? Rất dễ hiểu :
Ðức Bà Cotignac vì Mẹ hứa ban nhiều ơn, Ðức Bà Paris
vì là Giáo Hội mẹ, thủ đô nước Pháp, và Ðức Bà
Thắng Trận vì được tôn vinh do nhiều ơn lành ban cho
quốc gia. Vua Louis XIII phu quân được một hoàng tử, và
thầy Fiacre thuộc tu viện các tu sĩ Augustinô ở Paris
được đề cử, thay mặt nhà vua và bà hoàng hậu, đi
đến đền thờ Cotignac để cám ơn Ðức Mẹ. Ðể tỏ
lòng biết ơn hơn nữa, vua Louis XIII đã dâng quốc gia cho
Ðức Mẹ. Ðó là điều mà lịch sử gọi là "Lời
khấn hứa của vua Louis XIII". Vua Louis XIV, "Ông vua
mặt trời", đã đi hành hương Cotignac ngày 21-2-1660.
Giai đoạn ba : thật ly kỳ. Ngày 7-6-1660, trên sườn đồi
Bessillon, cách nhà thờ Ðức Mẹ Ban Ơn ba cây số về
hướng Tây, một người chăn chiên tên là Gaspard Ricard
đang chăn giữ đoàn vật và ngồi nghỉ dưới gốc cây.
Trời nắng chang chang. Anh lại khát nước. Bỗng dưng có
một người đàn ông xuất hiện trước mặt anh. Ông
lấy tay chỉ vào một tảng đá lớn trên thảm cỏ và
nói : "Ta là Giuse. Hãy cất tảng đá này đi và có
nước uống". Anh Gaspard là con người thực tế, anh
lượng định sức mình không làm sao xê dịch được
tảng đá quá lớn và quá nặng. Người tự xưng là
Giuse lại truyền : "Cất hòn đá đi và anh sẽ được
nước uống". Người chăn chiên vâng lời. Anh nâng
tảng đá lên một cách dễ dàng như nâng một chiếc
lông hồng và đặt một bên. Một dòng suối trong veo,
mát mẻ lộ hiện. Anh cúi xuống sát đất và uống một
mạch cho đỡ khát. Uống xong, anh ngửa mặt lên để cám
ơn người lạ dễ thương. Nhưng không thấy đâu cả. Ông
đã biến đâu mất, nhìn trước ngó sau, anh không thấy
ai.
Anh vội chạy về làng kể lại việc lạ xảy ra. Nhưng
người ta không tin. Anh năn nỉ mời họ ra xem. Giòng
nước chảy từ ba giờ và còn chảy mạnh. Mọi người
đều kinh ngạc. Tảng đá còn nằm lồ lộ ở đó, tám
người thử nâng lên không nổi, như đã được chốt
xuống lòng đất. Một tia sáng xuyên qua tâm hồn, Gaspard
người chăn chiên chất phác đã hiểu. Giuse kỳ diệu
ấy không ai khác là Thánh Giuse. Ngài đã ban cho anh một
sức mạnh phi thường để di chuyển tảng đá. Dân làng
bắt đầu cầu nguyện. Và từ năm 1660, dân chúng đổ
về cầu xin Thánh Giuse và uống nước. Giòng nước tuôn
chảy chữa bệnh tật phần xác và phần hồn.
Nhà cầm quyền Cotignac, được dân chúng ủng hộ, đã
xây cất ở đó một thánh đường trùm lên suối
nước, được Ðức Giám mục Frejus long trọng làm phép
ngày 9-8-1660. Một tu viện cũng được thiết lập bên
cạnh. Tại Cotignac, Thánh Giuse dạy chúng ta "hãy cất
hòn đá đi", để cho "ngọn suối ơn thánh"
tuôn chảy. "Ai khát hãy đến với Tôi, ai tin vào
Tôi, hãy đến mà uống. Như Kinh Thánh đã nói : Từ
lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng
sống" (Ga 7,38) (Hồng Phúc, Sđd, tr. 103-108).
4. Ba nữ tu dòng Mến Thánh Giaů : sau biến cố 1975, ba chị
em dòng Mến Thánh Giá cùng một Giáo phận gặp nhau lại
trên đất Mỹ. Họ gặp nhau, như ngày xưa ba chị em lên
Hà Nội mong được phúc tử đạo, nhưng sắc lệnh cấm
đạo đã được rút lại, họ quyết định lui về Bái
Vàng lập nên một tu viện tiền thân của dòng Mến
Thánh Giá bây giờ. Ba chị em chọn xứ Hoa Hồng Porland
để tiếp tục đời sống tận hiến. Nhà dòng phát
triển, có rất nhiều ơn gọi, đến nỗi không đủ chỗ
để tiếp nhận. Chị em cầu nguyện với Thánh Giuse. Ngài
liền ban cho một ngôi nhà rộng rãi khang trang, như ơn
trời rơi xuống. Và hiện nay trong tu viện mới, mỗi thứ
tư đều có thánh lễ tạ ơn Thánh Cả, và trong nhà
ngoài ngõ có tất cả 6 pho tượng Thánh ân nhân, từ
nhà khách đến nhà bếp và ngoài vườn. Giuse là Ðấng
bảo trợ cho người sống đời tận hiến (Hồng Phúc,
Sđd, tr. 102).
5. Trung Tâm Mục Vụ Ðông Nam Á, Porland, Oregon, Hoa kyř :
Người du khách nào đến trung tâm cũng chú ý đến
Tượng đài Thánh Giuse nằm giữa một khuôn viên đẹp
đầy hoa lá. Pho tượng Thánh Cả cao gần 2m, ẵm Chúa
Hài Nhi, uy nghi, óng ánh trong nắng vàng, như đón chào
người du khách. Một tấm đá cẩm thạch màu hồng
được gắn liền vào trụ đài với hàng chữ nổi bật
: "Giáo xứ ghi ơn Thánh Cả, 1986".
Porland đã lôi cuốn cả 6.000 người Việt Công giáo
đến định cư. Giáo quyền trao cho một linh mục dòng Chúa
Cứu Thế đứng ra tổ chức thành một giáo xứ tòng
nhân, một trong những giáo xứ di cư đầu tiên trên
đất Hoa Kỳ. Ðể có chỗ thờ phượng và sinh hoạt,
Giáo phận thuê lại những cơ sở cũ của một trường
nữ trung học của các bà Dòng Chúa Hài Ðồng, nhưng
đã bỏ trống, vì thiếu người trông coi. Cơ sở toạ
lạc trên gần 4 mẫu tây, gồm một thánh đường, một
hội trường, một ngôi nhà lớn 4 tầng, rất tiện việc
đi lại, sinh hoạt. Ngày 15-3-1981, tháng Thánh Giuse, Trung
tâm khai mạc mang tên là Trung tâm Mục Vụ Ðông Nam Á.
Giáo xứ tiến triển mạnh, nhưng vẫn ở trong tình trang
"ăn nhờ ở đợ", không biết đến ngày nào.
Năm 1986, đùng một cái, các nữ tu đòi lại và treo
bảng bán. Giáo hội Tin Lành ngả giá muốn mua. Một tổ
chức địa ốc khác lại trả giá cao hơn và bắt đầu
làm thủ tục mua. Các linh mục quản nhiệm, hội đồng
giáo xứ và giáo dân nghèo không biết làm sao hơn là
chạy đến cầu khấn với Thánh Cả Giuse. Tất cả đồng
thanh quyết định sẽ xây một đài kỷ niệm cám ơn Thánh
Cả, và mỗi ngày thứ tư có thánh lễ dâng kính Ngài.
Thánh Giuse đã hành động. Chính trong ngày lễ Thánh Cả
năm ấy, Thánh nhân đã lật ngược thế cờ. Cơ quan
địa ốc sở hữu chủ, đổi ý kiến, xin nhường lại cơ
sở cho giáo xứ Việt Nam, tiếp tục làm nơi thờ
phượng, với khoản bồi thường dài hạn (Hồng Phúc,
Sđd tr. 130-131).
6. Họ đạo Mỹ Hoà, xã Tân Thới Trung, Hốc Môn : Trong
"Nhật ký họ Thánh Giuse Mỹ Hoà" có ghi như sau :
"Năm 1973, có dự định lập sở truyền giáo giữa
một thôn làng gọi là Mỹ Hoà. Sự chuẩn bị về nhân
tâm kể đã xong. Nhưng khó tìm được một thuở đất
vừa tiện lợi vừa đẹp đẽ. Sau khi tìm kiếm và cầu
nguyện với Thánh Giuse, một năm sau mới chọn được
một địa điểm vừa ý. Nhưng ngặt một nỗi là bà chủ
đất không muốn sang nhượng.
"Ngày 24-10-1973 cha sở và một số tông đồ giáo
dân đến thăm đất, đọc kinh khấn Thánh Giuse và hứa
nếu mọi sự xong xuôi, sẽ tôn Ngài làm quan thầy họ
mới.
"Lạ lùng thay một tuần sau, chủ đất đồng ý và
giao kèo được ký kết. Khi khởi công xây nhà thờ,
phương tiện rất eo hẹp, chỉ mong nhờ Thánh Cả Giuse. Chỉ
sau ba tháng cơ sở đã hoàn thành, gồm nhà nguyện kính
Thánh Giuse, trường học và nhà ở cho giảng viên.
"Lễ khánh thành được tổ chức chính ngày lễ
Thánh Giuse, 19-3-1973. Từ đó họ đạo mang tên Thánh Giuse
phát triển mạnh" (Châu Thuỷ, Thánh Giuse, tr. 215-218).
7. Thánh Giuse ở Kapellen, Bỉ : Năm 1956 tại Anvers, một hải
cảng lớn của nước Bỉ, nhưng cũng là một nơi có rất
nhiều tệ đoan xã hội, nhất là trong giới nghèo thợ
thuyền. Tại đây trong một tu viện, có một chị nữ tu
không làm gì khác ngoài việc đi thăm viếng người
nghèo và cầu nguyện. Chị tiếp xúc với những người
cùng đinh xã hội, những người nghèo xác xơ thường
hay đến gõ cửa nhà dòng. Chị đã làm gì ? Hay chị có
thể làm gì ? Khi đã là một nữ tu, thì phương tiện
hoạt động rất hạn hẹp. Chị chỉ biết cầu nguyện và
khuyến khích mọi người cầu nguyện với Thánh Cả Giuse,
và kết quả rất là kỳ diệu.
Ðoàn lũ người nghèo ùn ùn kéo đến tu viện bất
chấp giờ giấc làm xáo trộn cuộc sống nội vi. Vì thế,
chị được lệnh không tiếp ai, không ra nhà khách và
lệnh cấm ấy lại phát xuất từ Toà Hồng Y, Ðức Van
Roey : "Chị phải sống ẩn dật không được đi ra
ngoài … Chỉ được đi dạo vòng ngoài công viên lúc
sáng sớm …".
Nhưng ngoài công viên lại có một Pho tượng Thánh Giuse
và chị hay đến tỏ bày tâm sự. Và một ngày kia, chị
nghe từ pho tượng phát ra, tiếng kêu đích danh chị, và
lời dạy sau đây : "Justa, con đem Ta đến khu mới
Kapellen, con biết chỗ ấy. Mọi người có thể đến. Ta
sẽ cầu xin cho những ai đến kêu cầu Ta, và Trời sẽ
xuống gần đất và đất sẽ lên gần Trời".
Chị Justa hứa sẽ đặt pho tượng vào ngày 1-5. Chị hứa,
nhưng không biết làm sao thực hiện. Chị đem câu chuyện
chia sẻ với một chị bạn. Chị này phát sợ, đã có
nhiều khó khăn rắc rối rồi. Cả nhà dòng phản đối
và cả Toà Giám mục nữa : "Chị ơi ! chị nghĩ đâu
đâu".
Nhưng chị nghĩ là làm theo Thánh Giuse ! Và Thánh Cả chỉ
dẫn cho chị biết dần những việc phải làm. Trước hết
chị nằm mơ thấy mình đang nằm trong một xưởng thợ, có
nhiều người đang làm việc. Bỗng chị thấy trong một xó
góc có một pho tượng đầy bụi bặm dơ bẩn, đến độ
chị không nhìn ra được tượng gì. Chị liền bắt đầu
phủi bụi, lấy một chiếc khăn lau sạch. Thì ra là pho
tượng Thánh Giuse. Chị rất kinh ngạc, nhưng vẫn lau chùi,
trong khi các người thợ khác tỏ ra khó chịu vì làm
bụi lan tỏa. Khi ấy, chị nhìn thấy một vị linh mục không
quen biết bước vào. Thì ra là Thánh Gioan Don Bosco, một
vị thánh rất sùng kính Thánh Giuse.
Chị Justa chợt tỉnh và tự hỏi mình phải làm sao. Chị
liền đi ra công viên đến trước pho tượng Thánh Cả
và cầu nguyện. Chị nói : "Nếu Thánh Cả muốn con
đưa Ngài đến đó thì xin làm một dấu gì. Xin cho cha
xứ đến gặp con hoặc bà ở của ngài cũng được …
như một dấu chỉ rằng chính Thánh Cả muốn như vậy, và
họ đến gặp con ở nhà khách vì con không được phép
gặp ai". Khu phố Kapellen là một khu phố "đỏ",
nổi tiếng về việc chống đối giáo sĩ mà họ gọi là
"những con quạ đen". Không một linh mục nào đặt
chân đến khu chống đối ấy, thì Thánh Cả Giuse lại
chọn khu phố đó.
Hai ngày sau, Mẹ Bề Trên tu viện ban phép cho chị Justa
được tiếp ở phòng khách bà quản gia của cha sở.
Ðây là dấu hiệu đầu tiên. Bà biết chị Justa cầu
nguyện rất sốt sắng và đến xin chị khấn cho người em
ruột đang mắc bệnh ung thư. Chị Justa trả lời : "Nếu
bà làm hết sức để thuyết phục cha xứ đặt một pho
tượng nhỏ Thánh Giuse tại khu phố mới Kapellen vào ngày
1-5 đến, chắc chắn bà sẽ được Thánh Giuse nhậm
lời". Chị xin bà quản gia thuyết phục cha sở cho
bằng được, vì việc đặt tượng không phải dễ. Cha
sở từ chối ngay : "Thật là điên khùng. Ai lại
đặt tượng Thánh Giuse vào giữa một khu phố chống
giáo sĩ, vào ngày lễ lao động !".
Thánh Giuse lại phải can thiệp. Cha sở đã xiêu lòng
phần nào khi thấy bà em cô quản gia của mình được
lành bệnh hoàn toàn, tức khắc và lâu bền, nhưng vẫn
khăng khăng từ chối. Thánh Giuse lại gửi đến cho cha
một cơn bệnh rất khó chịu. Nhưng cha vận dụng lý trí
để phân tích : Khu phố Kapellen thiết lập từ năm 1920
rất chống báng, ở đó có một bầu khí rất thù ghét
Giáo Hội. Con cái gia đình nào được gửi đến
trường đạo, cha mẹ đó sẽ bị tẩy chay sỉ vả. Ai lại
đem pho tượng Thánh Giuse đặt vào đó ?
Cha sở được lành bệnh nhưng chỉ đặt pho tượng tại
tư gia của mình. Thánh Giuse lại phải can thiệp bằng cách
gửi đến cha sở ương ngạnh bệnh sưng đầu gối, cần
phải mổ. Cha không hiểu làm sao cả. Cha liền dâng lại
lời hứa sẽ đặt pho tượng Thánh Cả Giuse tại khu phố
oái ăm này. Khi bệnh sưng chân được khỏi, cha lại cho
rằng muốn đặt một pho tượng ngoài trời thì phải có
một pho tượng khá lớn. Thánh Giuse lại can thiệp. Một
bà lạ, từ đâu đến nhà cha sở, xin dâng một pho
tượng Thánh Giuse, mà bà cho rằng nhà bà không xứng
để đặt tượng Ngài. Bà nói : "Ðây pho tượng
Thánh Giuse, cha có biết một nơi nào muốn đặt pho
tượng này không ?". Lạ thật cha sở vận dụng tất
cả can đảm đến gặp Hội Ðồng Thị Xã để xin phép
đặt tượng. Ông Thị trưởng ký giấy cho phép ngay. Ai
cũng ngạc nhiên.
Ngày áp lễ Lao Ðộng, một người thợ mộc dựng chiếc
đế cao để đặt pho tượng trước hiên một ngôi nhà.
Hàng xóm không bằng lòng, nhưng giấy phép chính thức
đã có, công việc vẫn tiến hành. Các phong trào bài
giáo sĩ dự định đem "hội kèn tây" đến thổi
để lấn át tiếng của cha sở khi dọc diễn văn khánh
thành. Thánh Giuse lại can thiệp cho người đi giải độc,
cho họ biết Thánh Giuse là một người lao động như họ
và là quan thầy giới lao động, vì thế không nên chống
phá. Ngày lễ Lao Ðộng cũng là ngày khánh thành, làm
phép pho tượng. Khu phố Kapellen đầy cờ đỏ phất
phới, nhiều hội kèn tây cử những bài mừng Thánh
Giuse. Thật long trọng.
Pho tượng Thánh Cả được đặt giữa hai ngôi nhà và
người ta bắt đầu đến kính viếng. Nhóm người chống
đối dần dần cũng đổi thái độ. Một bà già 80 tuổi
ở gần đó, cảm thấy mình sắp được Chúa gọi về,
đề nghị bán ngôi nhà đang ở để các linh mục biến
thành ngôi nhà nguyện kính Thánh Giuse.
Giáo dân lũ lượt đến kính viếng, nhất là vào ngày
thứ tư, cha sở chủ sự cầu kinh trước pho tượng
Thánh Cả. Ngày 3-5-1957, Toà Tổng Giám Mục gửi người
đến thanh tra và cấm cha sở không được dự vào việc
sùng kính có vẻ quá ồn ào ở đó. Cha sở bị cấm,
nhưng giáo dân không bị cấm, vẫn tiếp tục kéo đến,
xung quanh pho tượng chất đầy những tấm đá tạ ơn.
Năm 1962 Ðức Gíam mục mới của Tổng Giáo phận Anvers
ban phép xây cất nhà nguyện mới, và năm 1964 thánh lễ
đầu tiên được cử hành (Hồng Phúc, Sđd, tr. 113-119).
8. Trung tâm Mont-Rouge : Một trung tâm mới nhất ờ Pháp
dâng kính Thánh Giuse là Trung tâm Mont Rouge ở Languedoc,
cách Béziers 12 cây số. Một trung tâm thanh vắng nhìn ra
biển Trung Hải, để tĩnh tâm cầu nguyện.
Cũng như mọi nơi khác, công việc Thánh Cả Giuse khởi
đầu trong âm thầm trầm lặng. Ngày 1-5-1966, cha Réné
Granier, cha sở xứ Puimission, với giáo dân tổ chức
cuộc cung nghinh Thánh Giuse từ làng lên đồi Mont Rouge,
ngọn đồi được dâng hiến cho Thánh Cả và Thánh nhân
bắt đầu làm việc. Nhiều cơ sở được xây dựng
nên, một ngôi nhà thờ được khánh thành vào ngày
1-5-1968. Ai cũng biết tháng 5-1968 ở Pháp như có một
cuộc cách mạng nhỏ suýt gây nên một đỗ vỡ lớn.
Trong ngày ấy, kỷ niệm việc Ðức Giáo hoàng Piô XII
thiết lập Lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955, tại đồi
Mont Rouge, trong khuôn viên Thánh Giuse vừa được mãi
tậu. Thánh lễ đồng tế đầu tiên được cử hành,
khởi đầu các cuộc hành hương của miền Languedoc. Nhiều
cơ sở được xây dựng để đón tiếp khách hành
hương. Hàng ngàn cây được trồng bao quanh đồi biến
thành một nơi im lặng mát mẻ, để tĩnh tâm cầu nguyện.
Một tu hội giáo dân được thành lập để lo dịch vụ
hành hương, một tờ báo : Tiếng Vọng Mont Rouge được
phát hành. Tất cả đều nhắm về một ý hướng :
"À JESUS PAR MARIE, AVEC SAINT JOSEPH : NHỜ MẸ MARIA, VỚI
THÁNH GIUSE ÐẾN VỚI CHÚA GIÊSU" (Hồng Phúc, Sđd, tr.
120-121).
9. Thánh Giuse là Ðấng ngay chính thật thař : Giáo xứ Lệ
Sơn, Ðànẵng, có cha sở từ năm 1900. Cha Giuse Nguyễn
Trí Dũng hiện nay là cha sở thứ 15. Có hai giai đoạn
không có cha sở : 1945-1954 và 1964-1975. Thực ra giáo xứ
đã được Cố Thiên (Mayard) ở Phú Thượng thành lập
đã gần chục năm trước. Năm 1962 cha sở Phaolô Trương
Ðắc Cần xây nhà thờ mới, bê tông cốt sắt.
Năm
1964 chưa kịp khánh thành, mới chỉ dâng thánh lễ, thì bị
trận lụt lớn nhất từ trước đến nay, quen gọi là
"lụt năm Thìn", và rồi chiến tranh. Cha con phải
dắt nhau bỏ chạy ra Hoà Khánh. Vội vã bỏ đi đến nỗi
trên tháp có bệ tượng Thánh Giuse, quan thầy giáo xứ,
thì cũng chưa kịp đặt tượng. Nhà thờ và nhà xứ sau
đó trở thành bãi chiến trường. Quân đội hai bên
chết tại đây không phải là ít. Quân đội Mỹ cũng
có lúc đóng ở đây. Những hàng chữ tiếng Mỹ còn
nguệch ngoạc trên các bức tường đổ.
Năm 1975 hoà
bình, sau hơn chục năm hoang tàn, tôi được sai về làm
cha sở. Ngày 7-7-1975 tôi giã từ Trà Kiệu về Toà
Giám mục. Hai ngày sau, ngày 9-7-1975, Ðức cha phó
Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách đưa tôi về nhận xứ,
có cha Antôn Trần Văn Trường, bạn Hùng Dũng, lái xe.
Vỏn vẹn chỉ có ba người. Cỏ mọc cao tới đầu gối,
không có lối cho chiếc xe jeep đi vào sân nhà thờ. Xe
đành để lại trên thuở đất bên cầu Bến Giang. Cha con
vạch cỏ làm lối đi vào. Giáo dân khoảng 5, 6 chục
người từ ba họ Lệ Sơn, Hà Thanh, Cẩm Sơn đůến
trước chờ đón.
Ðức cha vắn tắt giới thiệu. Anh
Giuse Ðặng Thiện thay mặt giáo xứ cám ơn Ðức cha và
chào tôi. Không một nghi thức. Ðức cha ra về. Một mình
nhìn nhà thờ mà ứa nước mắt. Tháp cao vẫn còn,
đầy lỗ đạn. Tường nhà thờ khúc còn, khúc đổ.
Mái nhà thờ trống trơn : ngói vỡ, rui mất, kèo bằng
bê tông còn, nhưng đôi cái cũng bị đạn làm cong, làm
gẫy. Nhà xứ không còn vết tích, cỏ phủ kín.
Ðức cha
bảo về Toà Giám mục ở, thứ bẩy chúa nhật về cho
lễ, khi nào có nhà thờ nhà xứ thì ở luôn. Chắc
họ cô đơn lắm ? Tâm trạng họ đã dao động nhiều.
Giáo dân cho tôi trọ nhà ông biện Kim : không nhà tắm,
không nhà vệ sinh, tất cả đều ra ruộng, bởi vì họ
cũng mới ở Hoà Khánh về. Nhà cửa đều tạm bợ.
Ban ngày đi ra thành phố xin xỏ, ban tối về làm lễ.
Ngày thường làm lễ nhà ông biện, chúa nhật trên
nền nhà thờ. Cha Khoá ở Sơn Trà cho một cái nhà
điện. Số tôn số gỗ của ngài, cộng với số tôn số
gỗ của nhà thờ Phước Nghĩa cha già Tước chia cho,
đủ lợp được hai gian và một gian nhà xứ. Cha Giuse
Ðinh Công Hạnh cho cả trăm bộ bàn ghế của Trường
Học Gioan XXIII, đem về đóng làm phên. Một tháng sau
Ðức cha Phêrô Phạm Ngọc Chi về làm phép nhà thờ.
Cha Phêrô Tống Kiên Hùng đi theo cho hai tượng Ðức Mẹ
và Thánh Giuse bằng gỗ của Mỹ, thật mỹ thuật và
tuyệt đẹp.
Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay năm 1980, sau 5 năm sống
chật vật, tạm bợ, cha Anrê Phạm Năng Tĩnh về dâng lễ
và giảng tĩnh tâm. Anh Giuse Nguyễn Văn Hiết chở ngài
tới bằng xe vespa. Sau thánh lễ, cha và anh đi quan sát
nhà thờ. Về sau được kể lại. Cha nói với anh :
"Nhà mình ở thì đẹp, mà Nhà Chúa thì ọp ẹp. Cha
con mình có thể sửa lại Nhà Chúa được không ?".
Trong bữa ăn trưa, cha Tĩnh cho giáo xứ biết ý định
của hai cha con. Làm sao kể được niềm vui đó. Hai cha con
giúp đỡ hoàn toàn từ vật liệu cho đến công thợ,
giáo xứ chỉ có công điều hành. Vui thì vui thật, nhưng
cũng lo lắm, phép tắc làm sao đây ? Mọi người từ
lớn đến bé đều một lòng cậy trông vào Thánh Giuse
bổn mạng.Thế là từ nay trong gia đình cũng như trong nhà
thờ, hằng ngày đọc Kinh cầu Ông Thánh Giuse. Ðọc suốt
thời gian dài, nên mọi người ai nấy thuộc lòng.
Cha Anrê làm tuyên úy dòng Phaolô. Cha đã xin Tu viện Sao
Biển giúp đỡ. Bà nhất Florence cho dỡ toàn bộ dãy
chuồng heo của nhà dòng. Tôn và gỗ rất nhiều. Chở ba
xe bò mới hết. Thanh niên đều hăng hái đi chở. Vì
lúc đó mọi vật tư đều được Nhà Nước quản lý,
nên khi sắp tới cầu Nguyễn Văn Trỗi có công an gác,
ai cũng sợ. Họ bàn với nhau : nếu có bị hỏi thì bảo
: Các Sơ cho mỗi người một ít về sửa lại nhà dột,
chuồng heo. Khi bàn như thế, tôi đi xe honđa theo, cũng có
mặt, và đồng ý. Một thanh niên tên là Ðặng Văn Hoà
phản đối : "Nói như thế là nói dối, con cái Thánh
Giuse không được nói dối, vì Thánh Giuse, Ðấng ngay
chính thật thà, như trong Kinh cầu". Biết anh nói thật
chứ không nói chơi, nhưng nghe anh phát biểu, ai có mặt
cũng cho là gàn. Ðến đầu cầu bên kia, công an bắt
giữ lại. Lạ lùng chẳng một ai nói, chỉ có anh Hoà
cất tiếng : "Các Sơ cho chúng tôi về làm nhà
thờ". Mọi người đều sợ. Thế mà khi nghe vậy,
các anh công an lại cho qua.
Tôn của Các Sơ cho đủ lợp, nhưng gạch và xi măng
kiếm ở đâu ra ? Trong làng có một gia đình có một số
gạch không dùng, nhường lại cho nhà thờ. Vui biết mấy
! Các mẹ gia đình cả trăm người đem trạc, quang gánh,
gánh về. Nhìn một dòng người gồng gánh, ôi đẹp quá
!
Ximăng thì sao ? Ở cảng Sơn Trà, các công nhân bốc
xếp có bán ximăng lẻ. Cha Khoá mua từng ký. Anh Hiết
làm nghề nhuộm. Một số thùng phi đựng thuốc nhuộm
không dùng, anh đem sang, cho cha Khoá đổ ximăng vào đó.
Anh em thanh niên đem ba xe bò từ Lệ Sơn ra Sơn Trà chở
về. Ðổ ximăng vào các bao bố, đổ 2/3, còn 1/3 thì đổ
vôi. Ở Sơn Trà cũng có một lò vôi, mua vôi tại
đó. Nếu trên đường có ai hỏi thì nói là mua vôi
về đổ ruộng, để khử nước phèn. Song chẳng có ai
hỏi.
Nhà thờ ngày nào cũng có hằng trăm người đến
làm. Thật là tấp nập và ồn ào. Lại thêm thợ từ
Cồn Dầu lên, phải đăng ký tạm trú tạm vắng. Ðăng
ký tại tổ trưởng là ông Hờn thật dễ dàng. Có
vài anh mặc thường phục đến thăm. Tôi dẫn các anh đi
thăm nhà thờ, chỉ cho các anh thấy những chỗ hư hỏng
cần phải sửa lại, các anh chẳng nói gì, rồi ra về.
Trong khi dẫn các anh đi thăm nhà thờ, tôi sợ lắm,tôi
cứ thầm thĩ kêu xin Thánh Giuse thương cứu giúp.
Nhà thờ sửa lại toàn bộ. Ðắp tượng Thánh Giuse
đặt trên bệ cũ ở trên tháp. Lưng tượng mỏng dẹp,
có ý muốn nói : "Ðã rút hết ruột của Thánh Giuse
rồi !".
Ðến Chúa nhật thứ năm Mùa Chay, ngày 23-3, Cha Phaolô
Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh, nay là Giám mục, khi đó là Ðại
diện Ðức Giám mục, về làm phép nhà thờ. Sở dĩ
chọn ngày đó, không chọn ngày lể Thánh Giuse 19-3, vì
ngày chúa nhật mới có người đi đông, ngày thường
phải làm hợp tác không nghỉ, không đi lễ được. Ðể
tới ngày lễ Phục Sinh thì không được làm lễ kính
Thánh Giuse. Ăn mừng nhà thờ, bằng cách mỗi gia đình :
quay một con gà hay con vịt, lấy nếp làm bánh, đủ mọi
thứ bánh, nhà có thứ trái cây nào thì đem thứ
đó. Thánh lễ tạ ơn cử hành vào 9 giờ sáng. Từ 7
giờ sáng người người đội thúng quà đem đến, đặt
trên hai cái bàn dài trên cung thánh. Sau lễ lấy ra ăn
chung tất cả. Giản dị, nhưng sâu đậm tình người.
Thánh lễ hôm đó, mọi người hát với tất cả tấm
lòng tạ ơn Thánh Cả Giuse. Bài hát là :
ÐK : Cả Lệ Sơn con hôm nay
Khi tiến vào Ðền Thánh Chúa
Nhìn Nhà Chúa Cha xây
Con biết nói những gì đây
Ôi lạy Cha Thánh Cả Giuse
Ôi lạy Cha Thánh Cả Giuse
Con vui sướng quá đi
Ôi lạy Cha Giuse thương yêu
1. Lệ Sơn ơi hãy mở mắt cho to, mà nhìn xem ôi kỳ công
của lòng tin.
2. Lệ Sơn ơi đã nhìn thấy rõ chưa, lòng Cha thương, hơn,
hơn vạn lần ta mong.
3. Lệ Sơn ơi hãy đoàn kết thương nhau, thì Nhà Chúa
mới kiên vững muôn đời tươi xinh.
(Theo lời kể của linh mục Giuse Nguyễn Trung Thành, nguyện
chính xứ Lệ Sơn, giáo phận Ðà Nẵng).
(Trích Sưu tập
về Thánh Giuse của Louis Nguyễn Phúc Kim)
|